Bác sĩ chuyên khoa 2 Huỳnh Tấn Vũ (Trưởng Đơn vị Điều trị Ban ngày, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM cơ sở 3, Giảng viên khoa Y học cổ truyền, Đại học Y Dược TP HCM) cho biết, trong những ngày xuân, gia chủ thường muốn trang hoàng nhà cửa với cây cảnh, hoa tươi, để cho căn nhà thêm tươi mới, rạng rỡ, tràn đầy sức sống. Cây cảnh ngày Tết không chỉ mang lại vẻ đẹp, niềm vui và may mắn, mà còn là dược thảo tốt.
Cây sung
Cây sung được hiểu theo nghĩa là “sung túc”, do đó được cho là hợp phong thủy mùa tết, trái thì được chưng trên mâm ngũ quả. Sung tên khoa học là Ficus glomerata Roxb, họ Moraccae (Dâu tằm). Hầu như tất cả bộ phận của cây sung đều có thể sử dụng được, như lá, quả, nhựa và vỏ sung.
Cây sung còn là một vị thuốc được người xưa sử dụng. Lá sung non dùng để ăn với nem tai, nem chạo. Nhựa sung là thuốc quý dùng để chữa bệnh nhức đầu và một số bệnh ngoài da (chốc, nhọt, sưng đau, tụ máu).
Hoa dừa cạn
Hoa dừa cạn có tên khoa học là Cartharanthus roseus, còn tên gọi khác là hoa hải đằng, trường xuân, là loài hoa được yêu thích bởi có nhiều màu sắc rực rỡ và phù hợp với nhiều kiểu trang trí khác nhau. Hiện trên thị trường có hai loại chính là hoa dừa cạn đứng và hoa dừa cạn rũ. Tùy vào mục đích trang trí mà gia chủ có thể lựa chọn loại phù hợp.
Dừa cạn cũng là một vị thuốc trong y học cổ truyền. Bộ phận dùng để làm thuốc chủ yếu là lá và phần ngọn cây được phơi nắng nhẹ hoặc sấy ở nhiệt độ 30-50 độ C cho đến khô. Sau đó, người dùng đem sắc nước uống, chế biến thành dạng trà hoặc giã, đắp. Đôi khi, toàn cây hoặc rễ cùng được sử dụng làm thuốc sắc hay cao lỏng. Đây là dược liệu có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng hoạt huyết, hạ huyết áp và giải độc. Dược liệu này còn được dùng để thông tiểu tiện, chữa bệnh tiểu ít, kinh bế, huyết áp cao; có nơi dùng làm thuốc ra mồ hôi, chữa tiêu hóa kém và lỵ.
Hoa dừa cạn có nhiều màu sắc rực rỡ và là thảo dược tốt cho sức khỏe. Ảnh: voso.vn
Hoa dành dành
Dành dành cũng là loại hoa được nhiều người ưa chuộng vì được cả hương lẫn sắc. Loại hoa còn được biết đến với cái tên mỹ miều là “bạch thiên hương” với vẻ bề ngoài duyên dáng như bông hoa hồng, màu trắng tinh khôi, hương thơm nồng nàn. Hoa nở vào giữa mùa xuân đến mùa hè, lá xanh tốt quanh năm, ít rụng.
Tất cả bộ phận của cây dành dành đều dùng làm thuốc, đặc biệt là sơn chi tử (quả dành dành). Khi quả chín, người ta ngắt bỏ cuống, ngâm trong nước sôi hoặc hấp, bóc bỏ vỏ lấy nhân, dùng làm thuốc thanh nhiệt lương huyết. Lá dành dành vị đắng chát, tính hàn, có tác dụng chữa nhọt độc, đắp vết thương.
Hoa dành dành vị đắng tính hàn, tác dụng thanh phế lương huyết. Hoa này dùng chữa phế nhiệt, ho có đờm đặc (mỗi lần dùng 3 hoa, thêm mật ong, hấp chín); chữa chảy máu cam.
Rễ dành dành vị đắng tính hàn, tác dụng thanh nhiệt lương huyết, giải độc. Rễ này chữa sốt cảm mạo, viêm gan vàng da, thổ huyết, chảy máu cam, viêm thận phù thũng.
Trái dành dành (sơn chi tử) có vị đắng, tính hàn, vào các kinh tâm, phế, can và vị. Trái này tác dụng tả hỏa trừ phiền, thanh nhiệt giải độc, chữa chứng nhiệt, tâm phiền, sốt cao bứt rứt, thấp nhiệt vàng da, tiểu tiện ít đỏ, nhiệt lâm, huyết nhiệt, xuất huyết, ung thũng sang độc.
Hoa hồng bạch
Hoa hồng bạch được yêu thích bởi vẻ đẹp tinh khôi. Hoa không những đẹp thơm mà còn là vị thuốc trị ho hiệu quả trong Đông y.
Có nhiều loại hoa hồng bạch, trong đó hai loại dễ bị nhầm lẫn và thường được nhắc đến là hồng bạch xếp (màu lá đậm, nhiều cánh hơn, cánh dày, mép cánh nhọn) và hồng bạch ho (màu lá nhạt, cánh mỏng hơn, mép cánh cánh cúp cong tròn).
Khi làm thuốc, người ta thường dùng hồng bạch ho bởi tính dịu và vị ngọt nhẹ. Sau khi thu hái, cánh hoa được phơi nơi râm mát, có gió lùa để khô tự nhiên. Theo y học cổ truyền, hoa hồng bạch có tính bình, tác dụng làm se niêm mạc, sát khuẩn, giảm ho, long đờm, nhuận tràng, giúp an thần dễ ngủ.
Để trị ho và viêm họng, ho có đờm, lấy 5 đến 10 g cánh hoa hồng bạch hãm lấy nước uống (nếu dùng tươi thì khoảng 20 g), hoặc hấp với đường phèn. Khi bị mụn nhọt sưng tấy, nóng đỏ gây khó chịu, hái một ít cánh hoa hồng bạch rồi rửa nhẹ, giã nát và đắp lên da. Nếu miệng và lưỡi bị lở loét, hái vài cánh hoa hồng bạch giã nhuyễn rồi trộn với mật ong và thoa lên.
Xạ can
Xạ can là loại cây thân thảo, sống dai, cho hoa đẹp, màu vàng cam. Người ta dùng thân rễ (thường gọi là củ) của cây để làm thuốc. Rễ cong, đốt ngắn màu vàng nhạt hoặc vàng nâu, ruột màu trắng, có mùi thơm, cứng. Xạ can vị đắng, tính lạnh, công dụng chính là thanh nhiệt giải độc, tiêu viêm, tiêu đàm.
Xạ can thường được dùng để điều trị viêm họng, sốt, đại tiểu tiện không thông lợi, viêm tuyến vú tắc tia sữa, kinh nguyệt không đều, điều trị các vết loét ngoài da…
Lê Chi