(Moitruong.net.vn) – Quản lý, thu gom và xử lý chất thải rắn (CTR) không còn là vấn đề cấp bách của riêng các đô thị và thành phố lớn, mà trở thành vấn đề đáng báo động cả ở các vùng nông thôn. Nguyên nhân chính là do sự phát triển mạnh mẽ các ngành nghề, việc thay đổi tập quán sinh sống làm cho lượng CTR khu vực nông thôn gia tăng cả về thành phần và tính độc hại, trong khi đó việc quản lý, xử lý CTR tại khu vực này còn thấp so với yêu cầu đặt ra.
Sức ép đối với môi trường nông thôn ở nước ta đến từ các hoạt động dân sinh và các hoạt động sản xuất như: Trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng và chế biến thủy sản, chế biến nông sản thực phẩm… Các hoạt động sản xuất ở nông thôn phần lớn ở quy mô hộ gia đình, gần khu dân cư; hình thức sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, chưa đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT). Vấn đề quy hoạch và quản lý chưa hợp lý, chưa có hoặc vận hành không hiệu quả, không đúng quy chuẩn các công trình xử lý nước thải, CTR cũng là những áp lực không nhỏ đối với môi trường nông thôn.
Ðáng chú ý, CTR ở khu vực này có sự khác biệt đáng kể về thành phần và mức độ gây ô nhiễm, tùy theo nguồn phát sinh và được phân loại theo ba nhóm chính là CTR sinh hoạt, CTR nông nghiệp và CTR làng nghề. Cụ thể, chất thải rắn từ nguồn sinh hoạt có đặc trưng là thành phần hữu cơ, dễ phân hủy, chiếm tỷ lệ cao, dao động từ 65% đến 70% tổng lượng rác thải. Ðối với loại rác thải từ nông nghiệp như bao bì phân bón, thuốc BVTV và từ các làng nghề thì thành phần vô cơ và các hợp chất độc hại, khó phân hủy, là mối nguy hại lớn, có khả năng gây ô nhiễm môi trường không khí, nước, đất và gây hại cây trồng.
Trong khi đó, việc thu gom CTR sinh hoạt tại khu vực trung du, miền núi, diện tích tự nhiên lớn, dân cư thưa thớt, CTR sinh hoạt phát sinh không nhiều và chưa phải là vấn đề đáng lo ngại. Tuy nhiên, tại các vùng ven đô thị, vùng đồng bằng tập trung nhiều dân cư thì việc thu gom, xử lý CTR sinh hoạt đang đặt ra nhiều thách thức lớn. Hiện tại, CTR tại các khu vực này đã được các tổ, đội vệ sinh môi trường thu gom và vận chuyển về các bãi chôn lấp. Hình thức chủ yếu là bãi chôn lấp lộ thiên, hầu hết không có hệ thống xử lý nước rỉ rác, hoặc có những hoạt động không hiệu quả gây ô nhiễm môi trường chung quanh.
Ðối với các loại chất thải nguy hại và khó phân hủy, chủ yếu có nguồn gốc từ hoạt động của ngành nông nghiệp và các làng nghề, việc thu gom và xử lý còn rất hạn chế, gây ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng môi trường. Hiện nay, tỷ lệ thu gom, xử lý CTR sinh hoạt tại khu vực nông thôn còn thấp, trung bình đạt khoảng từ 40% đến 55% so với lượng phát sinh CTR.
Trước tình trạng nêu trên, vấn đề quản lý và BVMT nông thôn đã nhận được sự quan tâm của Ðảng và Nhà nước thông qua việc ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, lồng ghép vào các văn bản quản lý môi trường nói chung, các văn bản quản lý sản xuất chuyên ngành nói riêng. Công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức và huy động sự tham gia của cộng đồng trong BVMT ở khu vực nông thôn cũng đang được đẩy mạnh và bước đầu thu được một số kết quả nhất định.
Tuy nhiên, quản lý môi trường nông thôn vẫn còn nhiều bất cập chưa được giải quyết ở các mức độ và cấp độ quản lý khác nhau; nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ; một số quy định pháp luật liên quan BVMT khu vực nông thôn thiếu tính khả thi, nhất là tình trạng chồng chéo trong phân công trách nhiệm giữa các cơ quan có liên quan; đầu tư cho quản lý và BVMT nông thôn chưa nhận được sự quan tâm, kinh phí thích đáng từ T.Ư, địa phương; công tác BVMT khu vực nông thôn chưa chú trọng đến việc quản lý và kiểm soát chất thải từ khu vực này một cách thật sự có hiệu quả…
Ðể giải quyết các vấn đề nêu trên, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quản lý và xử lý rác thải khu vực nông thôn, các bộ, ngành, địa phương phối hợp kiểm soát chặt chẽ nguồn rác thải phát sinh, nhất là việc lưu giữ, vận chuyển, xử lý và thải bỏ chất thải; hoàn thành hệ thống định mức kỹ thuật, đơn giá cho vận hành hệ thống xử lý chất thải, trước mắt cần tập trung vào một số loại hình hoạt động như: hệ thống xử lý nước thải, CTR, khí thải làng nghề; xây dựng hệ thống xử lý nước rỉ rác tại các công trình xử lý, thu gom rác thải tập trung tại mỗi địa phương; kiện toàn bộ máy thực thi công tác BVMT các cấp; huy động nguồn tài chính, tăng đầu tư; tăng cường khâu kiểm tra, giám sát và các giải pháp về công nghệ, kỹ thuật trong lĩnh vực thu gom, xử lý rác thải nói chung và rác thải khu vực nông thôn nói riêng…
Theo ND