Theo thông tin từ Bộ Công Thương, tháng 11/2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 29,18 tỷ USD, giảm 3,9% so với tháng trước và giảm 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tính chung 11 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 342,21 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 87,5 tỷ USD, tăng 10,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 254,75 tỷ USD, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 11 tháng năm 2022, xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến vẫn là động lực trong tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước khi chiếm tỷ trọng 86% tổng xuất khẩu cả nước; xuất khẩu nhóm hàng nông sản, lâm thủy sản chiếm 8,2%; nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản chiếm 1,2%. Cụ thể như sau:
Kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản ước đạt 28,3 tỷ USD, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu thủy sản ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, ước tính đạt 10,1 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm trước do các thị trường xuất khẩu hiện đều có nhu cầu cao đối với thủy sản Việt Nam. Xuất khẩu cà phê đạt 3,5 tỷ USD, tăng 31,5% về trị giá xuất khẩu và tăng 10% về lượng so với cùng kỳ năm trước; Xuất khẩu gạo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 16% về lượng và tăng 6,9% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến trong 11 tháng tiếp tục đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng chung của hoạt động xuất khẩu với kim ngạch ước đạt 294,5 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 86% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung.
Trong nhóm hàng này, xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng chủ lực đều đạt tốc độ tăng trưởng cao trên 10% như: phân bón các loại tăng 127,8%; hóa chất, tăng 32,5%; sản phẩm hóa chất tăng 28,2%; Túi xách, vali, mũ, ô dù tăng 39,3%; Hàng dệt và may mặc tăng 18,5%; Giầy, dép các loại tăng 39,9%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 11%; Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 27,5%; Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 23,3%; Dây điện và cáp điện tăng 11,9%; Phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 13%; Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận tăng 47%; sản phẩm từ sắt thép tăng 20,6%; đá quý và kim loại tăng 34%; bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc tăng 35%.
Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản trong 11 tháng năm 2022 mặc dù có xu hướng chậm lại nhưng là nhóm hàng đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu xăng dầu, than đá và quặng, khoáng sản khác tăng cao do giá các mặt hàng này tăng cao (xuất khẩu than đá tăng 74%; dầu thô tăng 33,5%; xăng dầu các loại tăng 31%).
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 101,5 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 29,7% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tiếp đến là thị trường Trung Quốc với kim ngạch xuất khẩu ước đạt gần 53 tỷ USD, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu sang thị trường EU ước đạt 43,5 tỷ USD, tăng 21%; xuất khẩu sang ASEAN ước đạt 31 tỷ USD, tăng 19,3%; xuất khẩu sang Hàn Quốc ước đạt 22,5 tỷ USD, tăng 13,4%; xuất khẩu sang Nhật Bản ước đạt gần 22 tỷ USD, tăng 21,2%.
Tháng 11, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 28,4 tỷ USD, tăng 1,8% so với tháng trước và giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 10,2 tỷ USD, tăng 6,4% so với tháng trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18,2 tỷ USD, giảm 0,6%.
Tính chung 11 tháng năm 2022, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 331,61 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 115,4 tỷ USD, tăng 11,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 216,18 tỷ USD, tăng 9,6%.
Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 109 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc ước đạt 58 tỷ USD, tăng 14,8%; ASEAN ước đạt 43 tỷ USD, tăng 16%; Nhật Bản ước đạt 21,7 tỷ USD, tăng 6,6%; EU ước đạt 14 tỷ USD, giảm 9,2%; Hoa Kỳ ước đạt 13,4 tỷ USD, giảm 5%.
Tháng 11/2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 0,78 tỷ USD. Tính chung 11 tháng năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 10,6 tỷ USD. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 27,9 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 38,6 tỷ USD.
Theo Bộ Công Thương, khó khăn mà hoạt động xuất khẩu đang gặp phải chính là thị trường bị thu hẹp. Một số mặt hàng chủ lực xuất khẩu của ta sang thị trường EU, Hoa Kỳ đang đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ; thị trường Châu Âu đang dựng lên các rào cản kỹ thuật liên quan đến môi trường, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh... khiến doanh nghiệp bị động và gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường.
Chưa kể, hàng Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm xuất khẩu cùng loại của Trung Quốc trên thị trường EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đông Á… do Trung Quốc nới lỏng chính sách tiền tệ, đồng nhân dân tệ giảm giá mạnh khiến giá hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn.
Theo đó, thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, tranh thủ cơ hội của từng thị trường, mặt hàng để đẩy mạnh xuất khẩu. Trong đó, tập trung hướng dẫn doanh nghiệp tận dụng các FTA đã ký kết, đa dạng hóa thị trường, không phụ thuộc vào thị trường truyền thống; tranh thủ nhu cầu khi các nước EU cắt giảm sản xuất đối với một số mặt hàng công nghiệp nặng, hóa chất, phân bón, thép...; nhiều nước hạn chế xuất khẩu lương thực để ổn định trong nước... để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng này.