Hội thảo nhằm lấy ý kiến các Bộ, ban, ngành trung ương, các chuyên gia trong nước và quốc tế, các địa phương, các doanh nghiệp thuộc khu vực phía Nam về các định hướng xây dựng Luật tài nguyên nước sửa đổi, cũng như các nội dung cụ thể của Dự thảo Luật.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành cho biết, thực hiện Chương trình công tác của Chính phủ năm 2022, Bộ TN&MT được giao chủ trì xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Trên cơ sở kết quả rà soát, Bộ TN&MT đã trình Chính phủ hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật, Chính phủ đã trình Quốc hội và được Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 tại Nghị quyết số 50/2022/QH15 ngày 13/6/2022 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022.
Đồng thời, Bộ TN&MT đã khẩn trương xây dựng dự thảo Luật tập trung vào 4 nhóm chính sách mà Chính phủ đã trình Quốc hội và được Quốc hội thông qua, bao gồm: Bảo đảm an ninh nguồn nước; Xã hội hoá ngành nước; Kinh tế tài nguyên nước; Bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra và đề xuất sửa đổi bổ sung một số chính sách khác.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ TN&MT đã chỉ đạo cơ quan xây dựng học hỏi kinh nghiệm các nước trên thế giới thông qua sự hỗ trợ của quốc tế như: chuyên gia Úc về khan hiếm và điều hoà, phân bổ tài nguyên nước; chuyên gia Hà Lan về trữ nước, hành lang bảo vệ nguồn nước và nước ngầm; chuyên gia WB về kinh tế nước; chuyên gia Pháp về quản lý tổng hợp lưu vực sông; chuyên gia Hàn Quốc về cải tạo, phục hồi dòng sông, cơ sở thông tin, số liệu; chuyên gia Mỹ liên quan đến nội dung về bảo vệ lòng, bờ, bãi sông; chuyên gia Ý liên quan đến điều hành, vận hành hồ chứa nước... để phân tích, lựa chọn các chính sách phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Thứ trưởng Lê Công Thành cũng cho biết, trong quá trình xây dựng dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Bộ TN&MT đã tổ chức họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, các buổi làm việc về dự thảo Luật với cơ quan, tổ chức có liên quan, chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế; đã gửi lấy ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, các tổ chức, cá nhân và đăng tải dự thảo Luật trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ.
Tại Hội thảo, Thứ trưởng Lê Công Thành đề nghị các đại biểu chia sẻ quan điểm, kinh nghiệm, đóng góp ý kiến quý báu của mình cho dự thảo Luật, tập trung vào các điểm mới của dự thảo Luật nhằm xây dựng, hoàn thiện dự thảo Luật bảo đảm tính đồng bộ, tổng hợp, thống nhất quản lý về tài nguyên nước, đảm bảo an ninh nguồn nước, bảo đảm hiệu quả, tính khả thi cao và đi vào thực tiễn.
Trình bày các điểm mới của dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) gồm 87 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 19 điều, sửa đổi, bổ sung 55 điều, bổ sung mới 13 điều) và bãi bỏ 05 điều.
Trong đó, dự thảo Luật đã bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả Trung ương và địa phương. Hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước.
Dự thảo Luật xây dựng theo hướng tách bạch quản lý tổng hợp thống nhất về tài nguyên nước với quản lý, vận hành công trình khai thác, sử dụng nước (công trình thủy lợi, thủy điện, cấp nước đô thị, nông thôn, cấp nước công nghiệp dịch vụ, giao thông thủy...); đồng thời giải quyết những chồng chéo, đan xen, xung đột, có lỗ hổng trong các luật.
Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) cũng bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia; đẩy mạnh xã hội hoá theo hướng những việc gì doanh nghiệp có thể làm được thì giao cho doanh nghiệp thực hiện, giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước; quy định rõ các nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ và phát triển nguồn nước; chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các quy định về phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm của người sử dụng nước.
Đồng thời, dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về đối tượng và nội dung về thu trữ nước mưa và việc sử dụng nước mưa tại các khu vực thường xuyên hạn hán thiếu nước và vùng thường xuyên ngập lụt; quy định cơ chế, chính sách trong việc thu trữ nước mưa; Bổ sung, cập nhật quy định theo hướng kiểm soát toàn diện các hoạt động có ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng đến nguồn nước, đến ổn định lòng, bờ, bãi sông, hồ chứa, ô nhiễm nguồn nước, bảo vệ môi trường, cảnh quan, hệ sinh thái ven sông,…
Bổ sung quy định về phân vùng chức năng nguồn nước, dòng chảy tối thiểu, ngưỡng khai thác nước dưới đất; quy định nội dung giám sát, trách nhiệm giám sát và kết nối dữ liệu giám sát của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước theo hướng tự động liên tục hoặc định kỳ đảm bảo giám sát khai thác, sử dụng nước của công trình... nhằm kiểm soát chặt chẽ các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước để bảo vệ số lượng, chất lượng của nguồn nước và bảo vệ các dòng sông.
Bổ sung nội dung về xác định các vùng, tiểu lưu vực, nguồn nước phải lập kế hoạch chi tiết sử dụng nước trong quy hoạch tổng hợp lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh. Để giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể của từng lưu vực sông xảy ra ở tiểu lưu vực đang gặp phải như vấn đề hạn hán, ô nhiễm, suy thoái, lũ lụt,…tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực.
Ngoài ra, theo Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh, dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã quy định rõ trách nhiệm của Bộ TN&MT, các Bộ, ngành địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện xây dựng kịch bản ứng phó, điều hoà, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng.
Tại Hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, lãnh đạo các sở TN&MT, doanh nghiệp khai thác và sử dụng nước đã phát biểu đánh giá cao Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) do Bộ TN&MT chủ trì xây dựng, soạn thảo. Các đại biểu cũng cho rằng, việc xây dựng Luật tài nguyên nước (sửa đổi) là yêu cầu cần thiết góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên nước, đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia. Dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi) được biên tập công phu và đã cập nhật, sửa đổi các vấn đề bất cập trong công tác quản lý tài nguyên nước.
Đồng thời, các đại biểu đã tập trung thảo luận, góp ý nhiều nội dung, đặc biệt là những điểm mới của dự thảo Luật, như: Rà soát, làm rõ một số khái niệm; rà soát nội dung, quy định về lấy ý kiến của cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước; các hành vi bị cấm; phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước; đăng ký, cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước; trách nhiệm quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ,....
Phát biểu giải trình các ý kiến đóng góp tại Hội thảo, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh thay mặt cơ quan soạn thảo bày tỏ sự cám ơn những ý kiến đóng góp có ý nghĩa và quý báu đối với dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi) để cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện. “Quan điểm, cách tiếp cận xây dựng Luật tài nguyên nước (sửa đổi) là quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên nước. Theo đó, cần phải có một đơn vị chủ trì và nhiều đơn vị phối hợp quản lý là điều bắt buộc phải hướng tới. Trách nhiệm an ninh nguồn nước là tất cả các bộ, ngành, địa phương nhưng phải có một cơ quan đầu mối để tổng hợp” - Ông Châu Trần Vĩnh cho biết.
Phát biểu tại Hội thảo, bà Nguyễn Thị Lệ Thủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đánh giá cao trong một thời gian ngắn khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 50 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, Chính phủ, Bộ TN&MT đã xây dựng Dự thảo Luật tương đối hoàn chỉnh để lấy ý kiến rộng rãi nhân dân.
Theo đó, Cơ quan soạn thảo đã tập hợp nghiên cứu rất kỹ chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,... Đặc biệt, cơ quan soạn thảo đã rà soát, đối chiếu 45 Luật, bộ Luật liên quan trước khi xây dựng các quy định mới trong dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm tránh những chồng chéo khi Luật được ban hành.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy đề nghị Bộ TN&MT tiếp tục lấy ý kiến rộng rãi nhân dân; rà soát các Luật, Bộ Luật liên quan, các công ước quốc tế để hoàn thiện Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Theo đó, Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ được thảo luận tại kỳ hợp Quốc hội đầu năm 2023 và thông qua tại kỳ họp cuối năm 2023.
Phát biểu kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Lê Công Thành cho biết, trên cơ sở ý kiến đóng góp của các địa biểu tại Hội thảo, Bộ TN&MT sẽ chỉ đạo cơ quan chủ trì soạn thảo tổng hợp, tiếp thu và tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật tài nguyên nước (sửa đổi).
Thứ trưởng chia sẻ, quá trình hình thành các cơ chế pháp luật tài nguyên nước đã phản ánh rằng đây là vấn đề rất là khó, Bộ TN&MT đã chỉ đạo cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tổng hợp hơn 45 bộ Luật; đồng thời, nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm quản lý tài nguyên nước của một số quốc gia trên thế giới. Mô hình quản lý tài nguyên nước của Việt Nam cũng đang được hiện hữu ở nhiều quốc gia, trong đó có Châu Á và khu vực Đông Nam Á. Trong quá trình xây dựng Luật tài nguyên nước (sửa đổi), Bộ TN&MT luôn nhất quán quan niệm, Chính phủ quản lý thống nhất tài nguyên nước. Theo đó, Ban soạn thảo và Tổ biên tập đã cố gắng đưa tất cả những nội dung quản lý vào dự thảo, và phân công trách nhiệm cụ thể cho các bộ, ngành, các địa phương và các công việc cần phải làm nhằm thúc đẩy quản lý tổng hợp, thống nhất tài nguyên nước và đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia.