Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống trân trọng giới thiệu bài viết Tiến ra biển bằng các đô thị biển để “mạnh giàu từ biển” của PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nghề cá Việt Nam, Đại biểu Quốc hội đoàn ĐBQH TP Hải Phòng.
Tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua, bàn về tình hình kinh tế - xã hội, nhiều ý kiến về các vấn đề nổi bật đã được nêu, xoay quanh các vấn đề trọng tâm kinh tế vĩ mô, xuất nhập khẩu, phát triển nguồn nhân lực, an ninh lương thực, lạm phát, năng lượng, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu,... Nhiều giải pháp cụ thể đã được đề xuất nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển bền vững trong thời gian tới, trong đó, có ý kiến về việc phát triển kinh tế biển, đô thị biển.
Kinh tế biển luôn được Đảng và Nhà nước ta đặt vào vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Hơn 30 năm đổi mới vừa qua, kinh tế biển đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, trong đó có kinh tế đô thị biển, song cũng bộc lộ những khó khăn, thách thức đối với phát triển bền vững.
Nhận diện đúng để có tầm nhìn mới
Mở đầu năm 2018 Ban chấp hành TW Đảng đã ban hành Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Chiến lược biển 2030 giúp Việt Nam phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, bảo vệ vững chắc các quyền và lợi ích của nước ta trên Biển Đông; đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, hướng ra biển và dựa vào biển. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng hướng tới “Khát vọng Việt Nam” với các mục tiêu bao trùm là đưa nước ta trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng, hòa bình và hạnh phúc theo các lộ trình đến năm 2030 và 2045. Phát triển hệ thống “đô thị biển” đúng hướng với tư cách là một “lĩnh vực kính tế biển mới” chắc chắn sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công Chiến lược biển 2030 và Nghị quyết Đại hội Đảng XIII.
Ngày 22/10/2018, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã tạo động lực phát triển Kinh tế biển Việt Nam.
Nước ta có lợi thế “mặt tiền hướng biển” với bờ biển trải dài hơn 3260 km (không tính bờ các đảo) thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển và nhiều đô thị lớn nhỏ được hình thành, phân bố ở vùng ven biển từ khá lâu đời. Đến nay, khoảng hơn 60% số đô thị lớn với hơn 50% dân số của nước ta tập trung ở vùng ven biển và đã có những đóng góp to lớn vào phát triển kinh tế biển đất nước. Không gian ven biển và hệ thống đô thị ven biển hiện tại trở thành vùng động lực phát triển kinh tế biển nước ta và là địa bàn phòng thủ đất nước vững chắc từ phía biển. Song, công bằng mà nói, số lượng đô thị biển ở nước ta vẫn còn ít, quy mô còn nhỏ và chất lượng vẫn còn ở “đẳng cấp” thấp so với đô thị biển trên thế giới.
Tuyệt đại đa số các đô thị biển nước ta đến nay là các đô thị ven biển (Coastal city), tiền thân từ các đô thị cổ xưa và phân bố dọc các tuyến đường bộ ven biển. Các đô thị cổ này được hình thành dựa trên việc khai thác mối quan hệ giữa ba yếu tố không gian ven biển là: cảng - biển - đô thị. Đây là cách tiếp cận của người Pháp trong quá trình đô thị hóa Hải Phòng từ gần 200 năm trước. Một số đô thị ven biển gần đây được cải tạo, nâng cấp và trở thành đáng sống hơn, bền vững hơn.
Đáng kể là: các thành phố Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, Hạ Long gắn với du lịch - dịch vụ; TP Hải Phòng gắn với cảng và khu công nghiệp ven biển; TP Vũng Tàu gắn với khai thác - dịch vụ dầu khí... Số còn lại đều là những đô thị ven biển được “nâng cấp” theo hướng mở rộng về quy mô, gắn với mở rộng hoạt động du lịch, tăng tích tụ công nghiệp và dân số. Một số địa phương có biển, nhưng quá trình đô thị hóa đến nay lại chỉ hoàn toàn dựa vào đất (Land-based), chưa nối kết nhiều với biển và chưa dựa vào việc khai thác hợp lý tiềm năng biển theo đúng nghĩa của nó.
Tiềm năng của biển chưa được khai thác tương xứng, mô hình tăng trưởng kinh tế biển chưa đa dạng, vẫn chỉ trông chờ vào mấy lĩnh vực kinh tế biển “truyền thống”. Tiếp cận như vậy, nên trong thực tế còn chậm tạo ra những ngành/nghề kinh tế biển mới theo tinh thần của Chiến lược biển 2030. Bên cạnh đó, dấu ấn của biển chưa đi vào tâm thức người dân của một số thành phố ven biển. Yếu tố biển chưa trở thành một thương hiệu lớn của không ít thành phố ven biển. Thậm chí, ở TP. Hồ Chí Minh có thời điểm khoảng 40% người dân chưa hề biết thành phố mình có biển. Về đại thể, biển tiềm chứa những “lợi thế tĩnh”do thiên nhiên “ban tặng”, nhưng để chuyển lợi thế thành lợi ích đòi hỏi phải tạo ra những “lợi thế động”- là các cơ chế, chính sách mở và đồng bộ tạo đột phá phát triển. Thực tế vừa qua chỉ ra rằng khả năng huy động các nguồn lực ngoài nguồn đầu tư công tùy thuộc rất nhiều vào “độ mở” của cơ chế, chính sách của Chính phủ.
Đô thị biển, một cách đơn giản, được hiểu gồm 4 nhóm chính: đô thị ven biển (Coastal city), đô thị đảo (Islandcity), đô thị biển (Ocean-based city), tức là đô thị nổi trên biển và đô thị dưới đáy biển (Underocean-based city). Các đô thị này đều hướng biển, dựa chủ yếu vào biển và ưu tiên khai thác các lợi thế của biển thay vì chỉ ưu tiên dựa vào lợi thế của đất như các dạng đô thị nội địa thông thường (nằm sâu trong đất liền). Các đô thị ven biển nước ta vẫn được phát triển trên nền tảng của tư duy “đất liền”. Sự thiếu sót trong nhận thức như vậy đã làm mất đi giá trị cốt lõi của đô thị biển, đặc biệt giá trị kinh tế trên một “đơn vị đô thị”.
Nhìn chung, giá trị “biển bạc” vẫn chưa được phát huy, trong khi các giá trị trước mắt của “đất vàng” ở ven biển và trên đảo vẫn đang hấp dẫn hơn với cả nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư. Cư dân Việt Nam, đặc biệt là ở hai vùng đồng bằng lớn là sông Hồng và sông Cửu Long, từ xa xưa, đã duy trì sinh kế nông nghiệp, chủ yếu dựa vào nguồn đất đai phì nhiêu. Họ không quan tâm và không nhận ra lợi thế và tiềm năng của biển cả. Tâm thức “xa rừng, nhạt biển” thiếu khát vọng chinh phục biển đã giới hạn chúng ta trong những “giấc mơ con” ở vùng cửa sông, ven biển. Phương thức phát triển đô thị biển chỉ dựa vào đất như trên vấp phải những hạn chế nhất định và có vẻ như đang níu kéo Việt Nam “đứng mãi ở ven bờ”. Vì thế, phát triển hệ thống đô thị biển theo đúng nghĩa của nó đã trở thành một nhu cầu thực tế khách quan, rất cấp thiết, và rất cần sự quan tâm nhập cuộc của các nhà hoạch định chính sách và chiến lược ở nước ta.
Nhìn ra thế giới cũng thấy, các đô thị trung tâm, đầu não về kinh tế, tài chính, du lịch lớn trên thế giới, như: Singapore, Hongkong, Thượng Hải, New York, Tokyo, Jakarta,…đều nằm cạnh biển, trên đảo và luôn chú trọng đến những lợi ích từ biển ngay từ khâu quy hoạch. Các quốc gia phát triển đột phá, như: Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc,…đều là các quốc gia ven biển, quốc đảo và đều có các chiến lược khai thác biển, đại dương hiệu quả, táo bạo và đầy tham vọng. Ngay từ thế kỷ XIX với dự báo “Địa Trung Hải là biển của quá khứ, Đại Tây Dương là biển của hiện tại, Thái Bình Dương là biển của tương lai”, người Mỹ đã đo lường sự phát triển bằng tọa độ biển chứ không phải lục địa. Thực tế đã kiểm chứng nhận định này là chính xác khi hiện nay, hai bờ Đông và Tây Thái Bình Dương đang là hai vùng phát triển năng động nhất thế giới.
Tiến ra biển bằng các đô thị biển để mạnh giàu từ biển
Thế kỷ XXI được coi là thế kỷ của biển và đại dương, đặc biệt là không gian kinh tế động lực Thái Bình Dương và Biển Đông. Vị thế và bối cảnh mới đòi hỏi Việt Nam cần đổi mới tư duy, thay đổi tầm nhìn về biển và đại dương để sớm trở thành một quốc gia biển mạnh, giàu, hòa bình và bền vững. Trong các chiến lược biển gần đây, vị trí của các “đô thị biển” trong kinh tế biển ở nước ta vẫn chưa được nhận diện rõ ràng.
Sự rõ ràng nhất có thể thấy là phát triển và khai thác các bãi biển đẹp để làm du lịch, bằng những dự án nghỉ dưỡng suốt dọc chiều dài đất nước và theo một nguyên tắc chung là chỗ nào dễ, ít tốn công sức thì làm,... Cho nên, đầu tiên và quan trọng nhất là phải thay đổi về tư duy và nhận thức, phải hướng ra biển, dựa vào biển, lấy biển làm động lực phát triển để làm giàu từ biển và xây dựng một Việt Nam mạnh về biển theo tinh thần của các Chiến lược biển của Đảng và Nhà nước nói trên.
Về mặt phân hóa lãnh thổ, nước ta có lợi thế vượt trội về biển với diện tích biển rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền, bao gồm các vùng biển nằm trong phạm vi 200 hải lý, thềm lục địa (gồm lòng đất dưới thềm lục địa) và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đất liền, biển và đảo là những mảng không gian không thể tách rời và luôn tương tác nhau (hoặc giao thương) trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.
Yếu tố biển luôn được coi trọng, được tính đến, được đặt vào vị trí quan trọng và được phản ánh trong các chủ trương, chính sách, chiến lược và kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc nói chung, cũng như kinh tế biển nói riêng. Dải ven biển và vùng biển gần bờ (đến độ sâu khoảng 30 m) nước ta được xem là “vùng động lực” với nhiều ý nghĩa khác nhau. Và, khi nói lợi thế biển nhìn từ đất liền thì dải ven biển là “hậu phương”, là “bàn đạp” và là không gian liên kết đất liền (đất) và biển (nước). Nói cách khác, chính yếu tố đất và nước này đã tạo nên cụm từ “đất nước” thân thương, và cụm từ này đã giúp chúng ta nhận diện đầy đủ một “Việt Nam biển” không tách rời một “Việt Nam đất liền”.
Biển nước ta là một bộ phận của Biển Đông - nơi được xem là “ngã ba đường” của thế giới. Nhìn từ góc độ chiến lược thì khu vực biển này là “nút giao” giữa các sáng kiến chiến lược toàn cầu của các cường quốc. Nổi bật gần đây là Sáng kiến “Vành đai, Con đường” với “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” cắt qua Biển Đông mà Trung Quốc theo đuổi. Và, Sáng kiến “Ấn Độ Dương -Thái Bình Dương rộng mở và tự do” của Mỹ. Cho nên, Biển Đông là địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng truyền thống của các nước lớn trong lịch sử, nơi tích tụ các mô hình chính trị, kinh tế, xã hội,… đa dạng của thế giới, cũng là nơi luôn căng thẳng liên quan tới chủ quyền biển, đảo kéo dài, phức tạp và nhiều bên nhất trên thế giới. Trong bối cảnh như vậy, biển cùng với các hệ thống đảo nước ta trở thành “phên dậu” bảo vệ chủ quyền toàn vẹn đất nước từ phía biển. Vì thế, lợi thế biển và lợi thế đất liền không bao giờ tách rời.
Tiến ra biển để phát huy lợi thế, để chuyển lợi thế thành lợi ích cho quốc gia phải là một hướng ưu tiên cao nhất thông qua việc tạo ra các “cực phát triển” mạnh hướng biển, góp phần tích tụ dân số đủ lớn trong không gian biển, ven biển và đảo để thực hiện “chủ quyền dân sự” của Việt Nam trên các vùng biển của Tổ quốc. Trong đó, xây dựng và phát triển hệ thống đô thị biển là một phương án định cư, một cách tích tụ dân số nhanh nhất, bố trí dân cư trên các đảo hợp lý nhất, cũng dễ quy hoạch và quản lý nhất. Đó cũng là cách góp phần giải bài toán quá tải đô thị trong tương lai, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030.
Đặc biệt, phát triển các đô thị biển để liên kết không gian biển với bờ biển, với đảo; đánh thức tiềm năng không gian kinh tế biển, tăng cường và mở rộng hội nhập kinh tế, cũng như hình thành các khu vực “đối trọng” trên biển cần thiết trong bối cảnh mới ở Biển Đông và khu vực như nói trên. Rõ ràng, cần phải “mạo hiểm” tiến ra biển lớn bằng việc sớm hoàn thiện hệ thống đô thị biển, đô thị ven biển, đô thị dưới đáy biển và đô thị đảo bền vững, góp phần khẳng định thế đứng của một “Việt Nam biển”.
Muốn tạo đột phá trong phát triển kinh tế biển cần phải có tầm nhìn mới và tạo “thế đứng” vững chắc, lâu dài trên biển thông qua phát triển một hệ thống đô thị biển nói trên. Chỉ như vậy, nước ta mới thực sự tiến ra biển lớn, mở rộng hội nhập, tạo nền tảng cho thực hiện chủ quyền dân sự trên biển và chuẩn bị điều kiện công nghệ hiện đại để sớm tiến ra đại dương, “lấy đại dương nuôi đất liền”. Mạng lưới các đô thị biển, nếu được xây dựng và phát triển hiệu quả chính là lời giải cho bài toán lâu nayvề phát triển bền vững kinh tế biển.
Nói cách khác, đây còn là một phần lời giải quan trọng của bài toán địa kinh tế, địa chính trị, gắn phát triển bền vững kinh tế biển dựa trên nền tảng kinh tế biển xanh, kinh tế tuần hoàn,... với bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của đất nước trong dài hạn.
Để hệ thống đô thị biển nước ta phát triển bền vững, xứng tầm
Triển khai Chiến lược biển 2030 và thực hiện “Khát vọng Việt Nam” có quá nhiều việc phải làm, trong đó cần tổ chức lại không gian kinh tế biển theo hướng hiệu quả, bền vững và xứng tầm. Và, như đã nói trên, cần ưu tiên phát triển các phân ngành của kinh tế biển theo lộ trình đến năm 2030, bao gồm: kinh tế ven biển, kinh tế đảo và kinh tế thuần biển, trong đó cần xác định không gian riêng cho mạng lưới đô thị biển. Bên cạnh việc thay đổi tư duy, tầm nhìn, tập trung cải tạo nâng cấp các chuỗi đô thị ven biển hiện có, mở rộng mạng lưới đô thị đảo (hiện mới có thành phố đảo Phú Quốc), cần sớm bắt tay vào nghiên cứu, quy hoạch và triển khai mô hình đô thị nổi trên biển, mô hình đô thị dưới đáy biển thích ứng biến đổi khí hậu, nước biển dâng,...
Theo tinh thần của Nghị quyết 06 nhận thấy, việc phát triển hệ thống đô thị biển ở nước ta đang đứng trước nhiều thách thức. Bên cạnh những thách thức về nhận thức và tầm nhìn, thì dải ven biển của nước ta cũng được cảnh báo là có nguy cơ bị ngập chìm dần trong vài chục năm tới. Trong khi, theo báo cáo “Tăng cường khả năng chống chịu khu vực ven biển: Phát triển khu vực ven biển Việt Nam - Cơ hội và rủi ro thiên tai” của Ngân hàng Thế giới (tháng 10/2020), mặc dù có tiến bộ đáng kể, nhưng các biện pháp quản lý rủi ro thiên tai hiện tại của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu. Dự báo đến cuối thế kỷ 21, khoảng 300 đô thị vùng duyên hải nước ta sẽ chịu ảnh hưởng, trong đó hơn 100 đô thị sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi biến đổi khí hậu và nước biển dâng, gây xói lở, nhiễm mặn, ngập lụt ở các xã, phường ven biển. Trong số đó một số tỉnh, thành phố bị ngập nặng phải kể đến là thành phố Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang. Đặc biệt, gần đây nhất (10/2022) chúng ta đã chứng kiến ngập lụt gây thiệt hại lớn cho thành phố Đà Nẵng và Huế; thành phố “đảo Ngọc” Phú Quốc thành “đảo Ngập”…
Lấn biển, lấn đảo để đô thị hóa nguy cơ gây ra các vấn đề môi trường biển, có khả năng gây vùi lấp và thu hẹp diện tích các hệ sinh thái biển-ven biển vốn có các giá trị dịch vụ cao và là nền tảng cho phát triển bền vững biển - ven biển, như: rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, các bãi cát biển. Phát triển đô thị biển cũng kéo theo gia tăng lượng chất thải, rác thải, trong đó có rác thải nhựa và vi nhựa...
Để phát triển bền vững kinh tế đô thị biển và hạ tầng đô thị biển Việt Nam cần chú ý đến ba nhóm giải pháp cơ bản.
Một là, phải có tầm nhìn và cách tiếp cận mới về đô thị biển và phải thể hiện trong quy hoạch quốc gia. Chức năng của đô thị biển phải được định hình rõ và đảm bảo không xảy ra xung đột.
Hai là, đô thị biển phải là toạ độ hội nhập quốc gia, mở cửa và trở thành trung tâm cạnh tranh quốc tế.
Ba là, tích hợp chức năng của đô thị trên tinh thần hiện đại hoá, cơ chế trao quyền phải gắn với chức năng đặc thù cho các đô thị biển để tăng tính chủ động, sáng tạo, cùng với đó động lực phát triển đô thị biển phải dựa vào các doanh nghiệp tư nhân,...
Ngoài ra, trong quá trình phát triển đô thị biển cần quán triệt các yêu cầu cơ bản để phát triển bền vững biển, đảo: (i) Duy trì được nguồn vốn tự nhiên biển; (ii) Bảo tồn được thiên nhiên biển, bao gồm cảnh quan biển; (iii) Bảo vệ được môi trường biển khỏi ô nhiễm và suy thoái; (iv) Phát triển hiệu quả kinh tế biểndựa trên nền tảng của kinh tế biển xanh và kinh tế tuần hoàn; (v) Thực thi nghiêm túc pháp luật về biển và kinh tế biển; (vi) Truyền thông nâng cao nhận thức và kiến thức cho các tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp và cộng đồng dân cư ven biển và trên đảo.
Trên cơ sở đó, triển khai phát triển đô thị biển cần xem xét, cân nhắc cụ thể và chú ý xử lý một số nhóm vấn đề dưới đây:
- Công nhận và sử dụng khôn khéo các gía trị của cảnh quan thiên nhiên và các hệ sinh thái biển, đảo như là nguồn “vốn phát triển” dài hạn; thiết kế và lựa chọn các mẫu hình kiến trúc đô thị xanh, thân thiện với tự nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, phù hợp văn hóa bản địa.
Sự giống nhau và đơn điệu đến nhàm chán của các “khối nhà” bê tông lạnh lẽo và thiếu vắng “cơ sở hạ tầng tự nhiên” ven biển, đảo đang ngăn cách con người với thế giới tự nhiên và hương vị biển, đánh mất giá trị bản địa. Điều này chẳng những không đem lại các giá trị đặc thù về kiến trúc đô thị biển mà du khách và người dân chỉ có thể nhìn thấy những “mảng biển xanh” qua khe hở của các khối/bức tường bê tông như vậy. Đôi khi gây hiệu ứng khi mưa lũ và biến các “đảo ngọc” thành “đảo ngập” giữa biển khơi.
Hội chứng phát triển đô thị, đa phần còn chung chung, dường như đã và vẫn đang xảy ra ở nước ta, từ trên miền núi xuống đồng bằng và ra đến ven biển.
- Xác định mô hình đô thị biển như là một “Hệ sinh thái đô thị biển” đa chiều, đa phương diện, đa dạng và đa dụng. Nó có đầy đủ chức năng và cấu trúc của một phức hệ sinh thái tự nhiên - nhân sinh, có các dòng vật chất tương tác bên trong và bên ngoài hệ thống.
Mô hình đô thị ven biển, đô thị đảo hay đô thị trên biển vừa phải hiện đại, vừa dân tộc; bảo đảm an ninh, an toàn và an sinh; và vừa có tính đặc thù vùng miền. Mô hình đô thị ven biển gắn với cảng biển ở nước ta chiếm đa số cả trong quá khứ, như: Hải Phòng, Vinh, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn, Vũng Tàu, cả trong tương lai, như: Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng Áng, Bắc Vân Phong, Chu Lai, Dung Quất,... Một ví dụ khác, tỉnh Quảng Ninh có thế mạnh về biển rất lớn, ngay từ thời người Việt cổ đã xây dựng cảng Vân Đồn ngoài biển xa (ven đảo Quan Lạn), nhưng nay vẫn đứng trước sự lựa chọn trong dài hạn về mô hình “đô thị ven biển - TP Hạ Long gắn với cảng Cái Lân” hay là “đô thị Hạ Long gắn với giá trị di sản toàn cầu vịnh Hạ Long và các nguồn vốn tự nhiên biển khác”.
Bài toán mà Quảng Ninh phải giải là thay đổi tư duy và tầm nhìn dài hạn, tái cơ cấu kinh tế biển, và thay vì lấn biển để mở rộng quỹ đất và tìm cách “tiến ra biển” bằng đầu tư bất động sản, thì cần ưu tiên đầu tư phát triển các ngành kinh tế dựa vào bảo tồn (Conservation-based economy). Nếu như vậy, đô thị Hạ Long không còn là mô hình “Đô thị - cảng biển”, mà là “Đô thị xanh, thông minh, đa dụng”. Ngoài ra, Quảng Ninh vẫn có thể xây dựng một mô hình “Đô thị biển - đảo” theo đúng nghĩa của nó (dựa vào biển, đảo) gắn với cảng biển nước sâu ven đảo (có thể là cảng Hòn Nét) và một hệ thống cầu - đường vượt biển hợp lý, chứ không phải ở ven biển như cảng Cái Lân và phát triển “dựa vào bờ” như hiện nay.
- Cần sớm phát triển mô hình đô thị biển cấu trúc đa chiều, vì đô thị vốn là một thực thể mang tính nhân văn, hay nói cách khác cũng là một hệ sinh thái “nhân sinh”, được con người tạo ra từ chính các nguồn lực tự nhiên (tài sản và vốn tự nhiên).
Hệ sinh thái đa chiều lồng ghép cả 5 yếu tố chính: Tự nhiên, Kinh tế, Con người, Văn hóa và Công nghệ (sự can thiệp của công nghệ mới), nhưng vẫn đảm bảo có chức năng riêng để tồn tại và phát triển độc lập, nhưng không cô lập vì có tính liên kết với các hệ sinh thái (tự nhiên và nhân sinh) khác xung quanh nó. Do đó, cần xác định rõ cấu trúc, chức năng và các dòng (flow) quan hệ nội tại của đô thị biển và các tương tác với xung quanh. Theo đó, chính quyền đô thị cũng phải đảm bảo đủ năng lực quản trị và quản lý đô thị đa chiều với các vấn đề đa ngành, liên ngành dựa trên cấu trúc liên thông, liên kết đã được nghiên cứu, đánh giá cùng với tiềm năng phát triển dài hạn. Trong đó, quan trọng nhất là chất lượng nguồn nhân lực, nhất là lãnh đạo phải có kỹ năng quản lý phát triển và quản trị tốt. Con người là một thành tố quan trọng của hệ sinh thái đô thị biển, cần được quan tâm để, như đã nói trên, bảo đảm cho đô thị biển phát triển độc lập nhưng không bị cô lập; vẫn phải tương tác với các thành tố khác và các mối liên kết bên ngoài của hệ sinh thái đô thị này.
- Cần chú ý làm rõ chức năng trung tâm của hệ sinh thái đô thị biển. Một hệ sinh thái đô thị bao giờ cũng là thành phần của một hệ thống lớn hơn và đồng thời lại bao chứa một hoặc nhiều hệ thống nhỏ hơn. Thông qua các tương tác đa chiều, đô thị biển kiểu này hội tụ các nguồn lực, các dòng vật chất cả bên trong lẫn bên ngoài, và cứ thế đô thị phát triển. Khi đó, đô thị biển có thể phát huy được khả năng tích tụ không chỉ đối với đất đai mà còn đối với dân số biển đảo, gia tăng nhu cầu nội vùng (cầu) và tạo động lực (cung) phát triển kinh tế của chính đô thị biển và vùng xung quanh.
Ví dụ, Thủ đô Hà Nội không thể phát huy ảnh hưởng và điều khiển nền kinh tế cả nước tốt nhất, trực tiếp là vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, nếu như thiếu vai trò “sải tay nối dài” của hệ thống đô thị ven biển: Hạ Long - Hải Phòng - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình - Thanh Hóa. Do đó, quy hoạch đô thị không chỉ dừng ở quy mô một đô thị, mà cần được xem xét nó trên quy mô của một hệ thống (hệ sinh thái đô thị với các đô thị vệ tinh, đô thị thành phần), đặc biệt tạo ra động lực ảnh hưởng lan tỏa và khả năng liên kết vùng.
- Cần lưu ý, mỗi hệ thống (tự nhiên và nhân sinh) đều có 3 thuộc tính (đặc trưng) vốn có: Tính vượt trội, tính đa dụng và tính liên kết (liên kết nội tại và liên kết vùng).
Đây cũng là 3 yếu tố đóng vai trò quan trọng trong xây dựng phương pháp luận về mô hình phát triển hệ sinh thái đô thị biển. Nghiên cứu mô hình hệ sinh thái đô thị biển cần được đặt vào bối cảnh một vùng ven biển hoặc một vùng biển, đảo cụ thể ở Việt Nam. Nhận diện được tính vượt trội sẽ phát huy được lợi thế so sánh của đô thị biển, tìm ra “sắc thái” riêng của từng đô thị biển, tránh được “bệnh hội chứng” trong phát triển đô thị biển.
Một số kiến nghị
Có thể nói, không gian (vùng) ven biển nước ta được hiểu là bàn đạp để “tiến ra” biển, là “hậu phương” cho kinh tế biển, còn con người tuy rất nhỏ bé khi hiện diện trong không gian biển rộng lớn nhưng lại là những cột mốc chủ quyền tự nhiên của quốc gia. Trong khi, hệ thống quần đảo và đảo của Việt Nam phân bố rộng khắp, từ bắc vào nam, từ bờ ra khơi, hình thành một thế trận kinh tế - quốc phòng trên biển rất hữu dụng. Tuy nhiên, đến nay liên kết phát triển vùng giữa vùng ven biển với các hệ thống đảo/cụm đảo và các vùng biển bên ngoài, cũng như giữa các đô thị biển cụ thể nói trên còn rất hạn chế.
Cần ưu tiên nghiên cứu, xem xét “hệ thống đô thị biển quốc gia”: tiến hành cải tạo nâng cấp mạng lưới đô thị ven biển; lựa chọn xây dựng mạng lưới đô thị đảo (hiện nay mới có thành phố đảo Phú Quốc). Sớm đánh giá tiềm năng và định hướng phát triển các đô thị nổi trên biển đặt trong khuôn khổ tổ chức lại không gian (quy hoạch không gian biển) kinh tế biển nước ta. Tìm hiểu mô hình đô thị biển dưới nước thích ứng biến đổi khí hậu.
Lưu ý quy hoạch phát triển hiệu quả và bền vững đô thị mới “cận kề” các cảng biển lớn, nước sâu, như: Nghi Sơn (Thanh Hóa) gắn với cảng cùng tên, Kỳ Anh (Hà Tĩnh) gắn với cảng nước sâu Vũng Áng, Vạn Tường gắn với cảng nước sâu Dung Quất,... Bên cạnh đó, cần ưu tiên xây dựng các tuyến giao thông (đường bộ cao tốc và đường sắt hiện đại ven biển, đường hàng không) để hình thành các “tuyến lực” giúp gia tăng khả năng nối kết các đô thị ven biển nói trên, tạo động lực cho liên kết vùng.
Chuẩn bị để sớm xây dựng mạng lưới đô thị đảo ở 12 huyện đảo của nước ta. Tương tự như đô thị ven biển, phát triển đô thị đảo nhằm tạo kết nối đảo với biển và vùng ven biển (đất liền), hình thành các cực phát triển, tạo khả năng tích tụ dân số, tăng cường hội nhập trong lĩnh vực kinh tế biển, giúp tăng cường thực thi chủ quyền dân sự, tạo “đối trọng” với các sáng kiến chiến lược qua Biển Đông nói trên, góp phần khắc phục những thách thức trong bối cảnh mới ở Biển Đông,... Các đảo/huyện đảo có triển vọng phát triển thành đô thị đảo, như: Cô Tô và Vân Đồn (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), Phú Quốc (Kiên Giang). Trong đó, cần ưu tiên xây dựng sớm các đô thị đảo ở Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo và Phú Quốc.
Để phát triển hệ thống đô thị biển Việt Nam đúng tầm, khuyến nghị Chính phủ: (i) Thể chế hóa, có thể dưới dạng một nghị quyết riêng về “Phát triển hệ thống đô thị biển và kinh tế đô thị biển” ở cấp Bộ Chính trị/TW Đảng hoặc Chính phủ, để tạo cơ chế chính sách đặc thù thu hút sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, của các doanh nghiệp và người dân; (ii) Hệ thống đô thị biển phải được nhìn nhận như một không gian quan trọng trong không gian biển quốc gia, và phải chiếm vị trí xứng đáng trong “Quy hoạch không gian biển quốc gia” thực hiện Luật Quy hoạch (2017) trong thời gian tới; (iii) “Đô thị biển” phải trở thành một lĩnh vực kinh tế biển quan trọng như các ngành/lĩnh vực kinh tế biển truyền thống khác (Hàng hải, du lịch biển, nghề cá,dầu khí,...); (iv) Phát triển đúng hướng, hệ thống đô thị biển sẽ giúp cho kinh tế biển nước ta phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xanh và bền vững với văn hóa biển độc đáo.