Tối 22/4, Đại tướng Lê Đức Anh, sinh năm 1920, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, sau một thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sỹ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao sức yếu, đã từ trần vào hồi 20h10 ngày 22/4/2019 tại nhà Công vụ, số 5A, phố Hoàng Diệu, TP Hà Nội.
Tóm tắt tiểu sử ông Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng.
Đại tướng Lê Đức Anh sinh ngày 1/12/1920 tại xã Lộc An, H.Phú Lộc, Thừa Thiên – Huế.
Nguyên Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Ảnh. Ảnh: VGP
Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1937, sau đó, từ năm 1945, ông tham gia quân đội, giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến Chính trị viên Tiểu đoàn và Trung đoàn.
Từ 10/1948 đến 1950, ông Lê Đức Anh là Tham mưu trưởng các Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn. Giai đoạn 5 năm sau đó, ông giữ cương vị Tham mưu phó, quyền Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.
Từ 8/1963 đến 2/1964, ông là Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, sau đó trở thành Phó tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam, Tư lệnh Quân khu 9 (năm 1969).
Tháng 6/1974, ông được thăng quân hàm vượt cấp từ đại tá lên trung tướng, giữ cương vị Phó tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Lê Đức Anh là một trong hai trường hợp đặc biệt được thăng hàm vượt cấp từ đại tá lên trung tướng.
Nguyên Chủ tịch nước – Đại tướng Lê Đức Anh đón đoàn Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng do Đại tướng Ngô Xuân Lịch – bộ trưởng Bộ Quốc phòng – làm trưởng đoàn đến thăm, chúc mừng sinh nhật lần thứ 96 của Đại tướng Lê Đức Anh ngày 1-12-2016 – Ảnh: TTXVN
Từ 1976 đến 1980, ông Lê Đức Anh trở thành Tư lệnh Quân khu 9, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam. Ông được thăng quân hàm thượng tướng năm 1980 và 4 năm sau đó được thăng quân hàm đại tướng.
Từ 1981 đến 1986, ông giữ cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.
Từ tháng 2/1987 đến tháng 8/1991, ông là Ủy viên Bộ Chính Trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng.
Giai đoạn 1992-9/1997, ông giữ cương vị Chủ tịch nước và là Ủy viên cố vấn Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ 12/1997-4/2001. Sau đó, ông chính thức nghỉ hưu.
Trong cuộc đời tham gia hoạt động cách mạng của mình, cũng như lúc trong cuộc sống đời thường, nhiều lần Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã vượt qua những cơn hiểm nghèo một cách kỳ diệu.
Đại tướng Lê Đức Anh thực sự là một tướng trận. Ông là một trong số ít người đã trải qua các cuộc chiến tranh và xung đột từ năm 1945 – 1989. Ông có mặt ở những điểm nóng nhất và trở về trong chiến thắng: tham gia 9 năm kháng chiến chống Pháp, đi chiến trường miền Nam 11 năm (1964 – 1975), chỉ huy chiến trường Campuchia 7 năm (1979 – 1986), ổn định tình hình biên giới phía Bắc (1986 – 1989).
Ông trực tiếp tham gia những trận đánh, những sự kiện mang tính bước ngoặt của chiến tranh: Mậu Thân 1968, chống lấn chiếm 1973, Phước Long 1974, chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch giải phóng Campuchia; chấm dứt xung đột biên giới với Trung Quốc; bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc: Ngày 6-11-1987 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh số 1679/ML-QP về việc bảo vệ quần đảo Trường Sa; ngày 29-3-1989 Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh số 167/ML-QP về đóng giữ, bảo vệ khu vực biển thềm lục địa, bãi đá ngầm (khu DK1).
Chiến dịch Hồ Chí Minh trong mùa đại thắng 1975 đã giải phóng Sài Gòn, kết thúc tròn vẹn cuộc chiến tranh. Cứ đến ngày 30 tháng 4 mỗi năm, cả đất nước ta lại long trọng kỷ niệm ngày đất nước thống nhất. Đây là dịp để chúng ta cùng tưởng nhớ, trân trọng những nhân vật lịch sử, qua những con người cụ thể, nhân vật cụ thể, trong đó có Đại tướng Lê Đức Anh, người đã cùng viết nên bài học vẻ vang của lịch sử dân tộc.
Trong sự nghiệp của mình, ông đã nhận được phần thưởng cao quý như Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác.
Đại tướng Lê Đức Anh là đại biểu quốc hội 4 khóa (từ khóa VI đến khóa IX); là Ủy viên Trung ương Đảng 5 khóa (từ khóa IV đến khóa VIII), và là Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII và VIII.
Hà Thu