Nghề làm tranh Đông Hồ được UNESCO ghi vào Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp
Vào 14h38 ngày 9/12/2025 tại New Delhi (16h08 giờ Hà Nội), Kỳ họp lần thứ 20 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO đã thông qua Quyết định 20.COM 7.a.1, ghi danh Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa phi vật thể thứ 17 của Việt Nam được UNESCO ghi danh.

Nghề làm tranh Đông Hồ hình thành khoảng 500 năm tại khu phố Đông Khê (phường Thuận Thành, Bắc Ninh). Các thế hệ nghệ nhân nơi đây sáng tạo nên dòng tranh mang đặc trưng riêng về chủ đề, kỹ thuật in, màu sắc và đồ họa dựa trên phương pháp in khắc gỗ truyền thống. Tranh gồm nhiều chủ đề như tranh thờ, chúc tụng, lịch sử, sinh hoạt, phong cảnh, gắn với tập tục treo tranh dịp Tết, lễ tiết và thờ cúng. Toàn bộ quy trình – từ vẽ mẫu, khắc ván, chế màu đến in tranh – đều được thực hiện thủ công. Màu tự nhiên được lấy từ lá chàm, sỏi son, hoa hòe, quả dành dành, bột sò điệp phong hóa, tro lá tre và rơm nếp. Tranh được in trên giấy dó phủ hồ điệp với trình tự màu đặc trưng: đỏ – xanh – vàng – trắng, và cuối cùng là nét đen.
Theo Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003, hồ sơ của Việt Nam đáp ứng đầy đủ tiêu chí ghi danh, dựa trên các lý do:
1. Giá trị văn hóa – xã hội: Tranh Đông Hồ gắn bó với các nghi lễ và lễ tiết truyền thống như Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu và nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Hiện chỉ còn rất ít gia đình duy trì nghề, truyền kỹ năng trong phạm vi gia đình và cho người học việc. Một số công đoạn như vẽ mẫu và khắc bản cần đào tạo chuyên sâu và kinh nghiệm tích lũy lâu năm. Các bản khắc gỗ được gìn giữ như báu vật gia truyền.
2. Nguy cơ mai một: Số nghệ nhân lành nghề giảm mạnh; thanh niên ít theo nghề; nghề khó đảm bảo sinh kế; nhu cầu tranh truyền thống suy giảm. Số người còn đủ tay nghề để duy trì và truyền dạy quá ít, khiến di sản đối mặt nguy cơ biến mất nếu không được bảo vệ khẩn cấp.
3. Kế hoạch bảo vệ: Kế hoạch gồm bảy mục tiêu: mở lớp truyền nghề, kiểm kê di sản, thiết kế mẫu mới, đa dạng hóa thị trường, cải thiện khả năng tiếp cận nguyên liệu, hỗ trợ thiết bị bảo hộ... Các giải pháp được đánh giá phù hợp, khả thi và đặt cộng đồng ở vị trí trung tâm.
4. Sự tham gia của cộng đồng: Các gia đình làm nghề tham gia tích cực vào quá trình lập hồ sơ, kiểm kê và các hoạt động cộng đồng.
5. Khung pháp lý và kiểm kê: Di sản đã nằm trong Danh mục kiểm kê và được cập nhật thường xuyên với sự tham gia trực tiếp của cộng đồng.

Từ quyết định ghi danh, UNESCO khuyến nghị Việt Nam tăng cường tích hợp di sản vào hệ thống giáo dục chính quy và phi chính quy, nhằm nâng cao nhận thức và sự gắn bó của thế hệ trẻ với nghề truyền thống.
Việc ghi danh có ý nghĩa đặc biệt với cộng đồng Đông Hồ và công chúng Việt Nam: Khẳng định giá trị lịch sử – nghệ thuật của dòng tranh; tạo động lực để nghệ nhân tiếp tục giữ nghề; nâng cao nhận thức xã hội về bảo vệ di sản; thúc đẩy sự quan tâm của giới trẻ và quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Tính đến nay, Việt Nam có 37 di sản được UNESCO ghi danh (9 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 17 di sản văn hóa phi vật thể, 11 di sản tư liệu). Bắc Ninh hiện sở hữu nhiều di sản nổi bật như Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Tín ngưỡng thờ Mẫu, Kéo co Hữu Chấp, tranh Đông Hồ; cùng Quần thể Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn, Kiếp Bạc và Mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm thuộc Ký ức Thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Thay mặt Việt Nam và cộng đồng thực hành di sản, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch – Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam Hoàng Đạo Cương và Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bắc Ninh Mai Sơn phát biểu đáp từ, cảm ơn các cơ quan của UNESCO và cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ di sản.




