Tấm "lá chắn" bảo vệ
Vùng đất ngập nước có vai trò lớn đối với con người và thiên nhiên, bởi nó có thể lọc các chất độc hại; lưu trữ các-bon giúp chống lại các tác động của biến đổi khí hậu; giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực trong điều kiện thời tiết cực đoan; lưu trữ nước mưa, nước chảy tràn khi bão giúp giảm lũ lụt và hỗ trợ nước khi hạn hán; bảo đảm đa dạng sinh học, là môi trường sống của hơn 100 nghìn loài sinh vật; bảo đảm nguồn cung cấp thức ăn và tạo nên các nguồn sinh kế cho khá nhiều người dân.
Hiện nay, vùng đất ngập nước cung cấp gạo cho 3,5 tỷ người trên thế giới; hơn một tỷ người hiện đang sinh sống dựa vào các vùng đất ngập nước và có tới 40% các loài sinh vật sống hoặc dựa vào những vùng đất ngập nước.
Trong điều kiện tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, tần suất các thảm họa trên toàn thế giới đã tăng hơn gấp đôi chỉ sau 35 năm. Điều đáng lưu ý là 90% các thảm họa này có liên quan đến nước.
Các vùng đất ngập nước đang đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định khí nhà kính và giảm bớt các tác động của biến đổi khí hậu.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, đất ngập nước có thể làm giảm những tác động từ sự biến đổi khí hậu, mặc dù chúng chỉ chiếm 6-8% diện tích bề mặt Trái Đất. Do chu trình trao đổi chất và nước trong các hệ sinh thái, nhờ lớp phủ thực vật của đất ngập nước, sự cân bằng của khí ô xi và các bon nic trong khí quyển làm cho khí hậu địa phương được ổn định, đặc biệt là về nhiệt độ và lượng mưa.
Việt Nam có 9 khu Ramsar (đất ngập nước) và nhiều khu bảo tồn, vùng đất ngập nước có vai trò và giá trị quan trọng về kinh tế, xã hội, môi trường và văn hóa.
Đặc biệt, các ramsar có khả năng chắn sóng làm giảm xói lở bờ biển, giảm thiệt hại do bão, lũ và sóng thần ở vùng ven biển trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Đất ngập nước giữ và điều hòa lượng nước mưa như “bồn chứa” tự nhiên, giải phóng nước lũ từ từ, từ đó có thể giảm hoặc hạn chế lũ lụt ở vùng hạ lưu. Nước được thấm từ các vùng đất ngập nước xuống các tầng ngập nước trong lòng đất, nước được giữ ở đó và điều tiết thành dòng chảy bề mặt ở vùng đất ngập nước khác để con người sử dụng.
Các vùng đất ngập nước cung cấp sinh kế cho con người. Sự đa dạng sinh học vùng đất ngập nước góp phần làm sạch nguồn nước, chất ô nhiễm; bảo vệ, giảm thiểu tác động của bão, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng ngập mặn, rạn san hô là tấm chắn bảo vệ vùng ven biển.
Theo Cục Bảo vệ thiên nhiên và đa dạng sinh học, rừng ngập mặn có chức năng chống lại sự tàn phá của sóng thần nhờ hai phương thức khác nhau.
Khi năng lượng sóng thần ở mức trung bình, rặng cây ở vùng nước ngập mặn vẫn có thể đứng vững, bảo vệ hệ sinh thái và bảo vệ cộng đồng dân cư sinh sống phía sau vì chúng mặn mọc đan xen, rễ cây phát triển cả trên và dưới mặt đất cộng với thân và tán lá cây cùng kết hợp để phân tán sức mạnh của sóng thần.
Khi năng lượng sóng thần đủ lớn để có thể cuốn trôi những cánh rừng ngập mặn thì chúng vẫn có thể hấp thụ nguồn năng lượng khổng lồ của sóng thần bằng cách hy sinh chính mình để bảo vệ cuộc sống con người.
Rễ cây ngập mặn có khả năng phát triển mạnh mẽ cả về mức độ rậm rạp và sự dàn trải. Khi cây ngập mặn bị đổ xuống thì rễ cây dưới mặt đất tạo ra một hệ thống dày đặc ngăn cản dòng nước.
Việt Nam có khoảng 12 triệu ha đất ngập nước, chiếm khoảng 37% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Các hệ sinh thái đất ngập nước tự nhiên quan trọng như các hồ, đầm, rừng ngập mặn, vùng đất ngập nước ven biển rất có giá trị về đa dạng sinh học.
Tuy nhiên, chất lượng đa dạng sinh học và các hệ sinh thái đất ngập nước của Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ suy thoái ngày một nghiêm trọng, nhất là các hệ sinh thái vùng biển triều, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cùng các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, quý hiếm đang bị giảm sút nhanh chóng về cả số lượng và quy mô, diện tích phân bố.
Các hành động làm suy thoái đất ngập nước
Các vùng đất ngập nước đang ngày càng bị tác động mạnh mẽ do các hoạt động phát triển kinh tế của con người và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu.
Nhiều vùng đất ngập nước đã bị biến mất và diện tích các vùng đất ngập nước bị thu hẹp do gia tăng sức ép khai thác, sử dụng đất ngập nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng đất ngập nước; giảm chất lượng đất và nước, thay đổi cấu trúc và chức năng dịch vụ hệ sinh thái ở nhiều vùng đất ngập nước trên toàn quốc.
Theo đánh giá của Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, sự suy thoái và mất đất ngập nước chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng đất và xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác nước, ô nhiễm môi trường và khai thác quá mức.
Các chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất như chuyển từ đất cạn sang đất ngập nước (đắp đập thuỷ điện, hồ chứa, nuôi trồng thuỷ sản, quai đê lấn biển, tái định cư …) hoặc thay đổi chế độ thủy văn đã làm suy giảm các giá trị của nhiều vùng đất ngập nước.
Sự mất mát có xu hướng nhanh hơn ở những khu vực có tốc độ gia tăng dân số cao nhất và những khu vực có nhu cầu phát triển kinh tế lớn nhất. Hàng loạt nguyên nhân gây ra việc đất ngập nước tiếp tục bị mất và suy thoái liên quan đến kinh tế, bao gồm cả trợ cấp bảo hộ.
Biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ tiếp tục làm trầm trọng thêm sự mất mát và suy thoái đa dạng sinh học đất ngập nước, bao gồm các loài không thể di chuyển và các loài di cư sống phụ thuộc vào một số vùng đất ngập nước ở các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống.
Theo Sách đỏ năm 2012 của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới, tại Việt Nam có ít nhất 135 loài đang bị đe dọa trên toàn cầu đang cư trú tại các sinh cảnh nước ngọt lục địa, bãi triều và ven biển. Số liệu này có thể gia tăng nếu không có giải pháp quản lý hiệu quả.
Hiện trạng sử dụng hệ sinh thái đất ngập nước - nước ngọt và khai thác thủy sản phụ thuộc vào sự tái sinh tự nhiên. Tại một số khu vực sự tái sinh tự nhiên hiện nay vượt quá mức có thể duy trì cho nhu cầu hiện tại nhưng lại giảm đi so với nhu cầu trong tương lai.
Sự suy thoái và mất đất ngập nước có thể dẫn đến sự suy giảm hơn nữa chất lượng cuộc sống của con người, đặc biệt đối với những người nghèo và các khu vực chưa có các giải pháp công nghệ.
Nhận thức chưa đúng đắn về tầm quan trọng, giá trị và chức năng của vùng đất ngập nước dẫn đến việc nhiều vùng đất ngập nước còn bị coi là đất hoang hoá. Các dịch vụ hệ sinh thái của vùng đất ngập nước chưa được chú trọng trong các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
Mặt khác, nguồn lực về tài chính, cơ chế đầu tư trong quản lý đất ngập nước còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước, hạn chế hiệu quả quản lý các hệ sinh thái, khu bảo tồn vùng đất ngập nước của Việt Nam…
Theo Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học (Bộ Tài nguyên và Môi trường), đến nay, Việt Nam đã đề cử thành công 9 khu Ramsar với tổng diện tích 120.549 ha, bao gồm: Vườn quốc gia Xuân Thủy – Nam Định (1989); Bàu Sấu thuộc vườn quốc gia Cát Tiên – Đồng Nai (2005); Hồ Ba Bể - Bắc Kạn (2011); Tràm Chim – Đồng Tháp (2012); Vườn quốc gia Mũi Cà Mau (2013); Vườn quốc gia Côn Đảo (2014); Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen - Long An (2015); Vườn quốc gia U Minh Thượng - Kiên Giang (2016); Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long – Ninh Bình (2017). Bước đầu, Mạng lưới các khu Ramsar của Việt Nam đã được thiết lập, vận hành hoạt động với địa chỉ website tại trang thông tin điện tử https://vran.vn/.
Năm 2023, Cục sẽ tiếp tục hoàn thiện, trình ban hành hai Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc thành lập và tổ chức hoạt động Mạng lưới các khu Ramsar, danh mục vùng đất ngập nước quan trọng; góp phần hướng dẫn thực hiện Nghị định số 66/2019/NĐ-CP ngày 29/7/2019 về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước, từng bước thể hiện trách nhiệm của Việt Nam là thành viên Công ước về các vùng đất ngập nước (Công ước Ramsar). Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đang triển khai hướng dẫn địa phương và tổ chức thẩm định Hồ sơ đề cử Khu Ramsar Bắc Đồng Nai là khu Ramsar thứ 10 của Việt Nam lên Ban thư ký Công ước Ramsar.