Vùng đất ngập nước được xem xét thành lập khu bảo tồn đất ngập nước quốc gia khi là vùng đất ngập nước quan trọng đối với quốc gia thuộc Danh mục các vùng đất ngập nước quan trọng được công bố; đáp ứng các tiêu chí của khu bảo tồn cấp quốc gia theo quy định của Luật đa dạng sinh học.
Vùng đất ngập nước được xem xét thành lập khu bảo tồn đất ngập nước cấp tỉnh khi thuộc Danh mục các vùng đất ngập nước quan trọng được công bố; đáp ứng các tiêu chí của khu bảo tồn cấp tỉnh theo quy định của Luật đa dạng sinh học.
Ngoài ra, đất ngập nước còn có khả năng dự trữ carbon, điều tiết nguồn nước, điều hòa khí hậu, hạn chế lũ lụt, là nơi lắng đọng phù sa, hình thành đất và tham gia tích cực trong vòng tuần hoàn các chất dinh dưỡng của hệ sinh thái toàn cầu. Đất ngập nước cũng là “cái nôi” quan trọng của đa dạng sinh học; bảo vệ, giảm thiểu tác động của bão, nhất là các hệ sinh thái rừng ngập mặn là tấm chắn bảo vệ vùng ven biển…
Lúa gạo được trồng từ các vùng đất ngập nước là nguồn lương thực chủ yếu cho khoảng 3 tỷ người, chiếm khoảng 20% nguồn tiêu thụ dinh dưỡng toàn cầu. Đến nay, các vùng đất ngập nước cung cấp sinh kế cho hơn 1 tỷ người trên thế giới.
Đặc biệt, đất ngập nước có khả năng dự trữ carbon với các vùng đất than bùn chứa đựng 30% lượng carbon ở mặt đất, điều tiết nguồn nước, điều hòa khí hậu, hạn chế lũ lụt, là nơi lắng đọng phù sa, hình thành đất và tham gia tích cực trong vòng tuần hoàn các chất dinh dưỡng của hệ sinh thái toàn cầu.
Đất ngập nước cũng là “cái nôi” quan trọng của đa dạng sinh học. 40% các loài sinh vật trên trái đất sinh sống và sinh sản ở các vùng đất ngập nước. Đa dạng sinh học vùng đất ngập nước góp phần làm sạch nguồn nước, chất ô nhiễm; bảo vệ và giảm thiểu tác động của bão, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng ngập mặn, rạn san hô là tấm chắn bảo vệ vùng ven biển.
Ở Việt Nam, đất ngập nước có diện tích khoảng 12 triệu hécta, đa dạng về kiểu loại và phân bố ở mọi vùng sinh thái của đất nước. Theo phân loại của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam có 26 kiểu loại đất ngập nước khác nhau với đa dạng sinh học hết sức phong phú gồm khoảng 1.028 loài cá, 848 loài chim, 800 loài động vật không xương sống ở hệ sinh thái nước ngọt và trên 11.000 loài sống ở hệ sinh thái đất ngập nước biển, ven biển.
Các vùng đất ngập nước đã cung cấp lương thực, thủy sản cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu đạt trên 10 tỷ USD chỉ riêng trong năm 2017. Khoảng 20 triệu người dân có thu nhập chính hoặc thu nhập một phần từ tài nguyên thủy sản và đang khai thác, sử dụng trên 300 loài hải sản, trên 50 loài thuỷ sản nước ngọt có giá trị kinh tế.
Những năm gần đây, giá trị của đất ngập nước được khai thác mạnh cho phát triển ngành du lịch. Nhiều vùng đất ngập nước như đảo Cát Bà, Côn Đảo, Phong Nha-Kẻ Bàng, Cần Giờ, Ba Bể, Tràm Chim… là những điểm thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
Trong những năm gần đây, giá trị của đất ngập nước được khai thác mạnh cho phát triển ngành du lịch như đảo Cát Bà, Côn Đảo, Phong Nha – Kẻ Bàng, Cần Giờ, Ba Bể, Tràm Chim,… là những điểm thu hút rất nhiều khách trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, việc khai thác các vùng đất ngập nước hiện nay còn thiếu bền vững và có nguy cơ gây tổn hại đến các khu vực này.
Đất ngập nước có nhiều chức năng và giá trị về kinh tế, xã hội, văn hóa… rất quan trọng.
Các vùng đất ngập nước đang ngày càng bị tác động mạnh mẽ bởi các hoạt động phát triển kinh tế của con người và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Nhiều vùng đất ngập nước đã bị biến mất và diện tích các vùng đất ngập nước bị thu hẹp do sức ép khai thác, sử dụng đất ngập nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng đất ngập nước gia tăng.
Nhiều giá trị văn hóa, xã hội, lịch sử gắn liền với các vùng đất ngập nước như các cây, con của vùng đất ngập nước được sử dụng làm biểu tượng, vật thờ cúng thiêng liêng, hay nghệ thuật đặc biệt độc đáo như múa rối nước, hoặc các chiến công đi vào lịch sử dựa vào các đặc điểm của vùng sông nước như chiến thắng Bạch Đằng…
Đất ngập nước còn có giá trị về nghiên cứu khoa học và giáo dục để giúp con người hiểu biết đầy đủ hơn sự vận hành của các hệ thống tự nhiên, góp phần bảo vệ và cải tạo môi trường, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển bền vững.
Suy giảm nghiêm trọng và khai thác thiếu bền vững
Đất ngập nước trên Trái Đất đang bị suy giảm nghiêm trọng. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, đến nay, đất ngập nước của thế giới đã biến mất 64% kể từ năm 1900. Nếu tính từ năm 1700 thì đã bị mất gần 87%.
Theo Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới, các quần thể thủy sinh vật đã giảm 76% trong giai đoạn từ năm 1970 đến năm 2010. Tình trạng này vẫn có chiều hướng gia tăng nếu thiếu các hành động mạnh mẽ để bảo tồn đất ngập nước ở các quốc gia. Suy thoái quá mức của đất ngập nước sẽ dẫn tới sự mất cân bằng sinh thái, đe dọa đến an ninh lương thực và sự phát triển của xã hội loài người.
Việc khai thác các vùng đất ngập nước hiện nay còn thiếu bền vững và có nguy cơ gây tổn hại đến các khu vực này. Các vùng đất ngập nước đang ngày càng bị tác động mạnh mẽ bởi các hoạt động phát triển kinh tế của con người và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Nhiều vùng đất ngập nước đã bị biến mất và diện tích các vùng đất ngập nước bị thu hẹp do sức ép khai thác, sử dụng đất ngập nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng đất ngập nước gia tăng.
Việc quai đê, lấn biển hoặc san lấp các ao, hồ để phát triển các khu công nghiệp, các đô thị hoặc hạ tầng du lịch, ngăn các dòng chảy để làm thủy điện, hồ chứa có thể làm suy thoái, thu hẹp một cách nhanh chóng các vùng đất ngập nước.
Ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp, sử dụng phân bón, hóa chất quá mức đã làm cho nhiều dòng sông không còn sức sống, các vùng biển ven bờ bị suy thoái nặng nề, điển hình là vụ ô nhiễm do chất thải từ Khu Công nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây tổn thất nặng nề hệ sinh thái ven biển miền Trung.
Việc khai thác, đánh bắt quá mức đã ảnh hưởng đến nguồn lợi và đa dạng sinh học của vùng. Nhiều loài thủy sản có giá trị cao bị suy giảm nghiêm trọng về số lượng cá thể, như cá anh vũ, cá lăng, cá chiên, tôm hùm, bào ngư, sò điệp…
Các kỹ thuật khai thác mang tính hủy diệt như dùng chất nổ, chất độc và sốc điện để đánh bắt thủy sản chưa kiểm soát được ở cả vùng nội địa và ven biển, đang là mối đe dọa cao đối với các hệ sinh thái tự nhiên có mức đa dạng sinh học cao như sông, suối vùng núi, đầm hồ, thảm cỏ biển và rạn san hô ở vùng nước ven bờ biển.
Theo Sách Đỏ năm 2012 của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới, Việt Nam có ít nhất 135 loài đang bị đe dọa trên toàn cầu cư trú tại các sinh cảnh nước ngọt lục địa, bãi triều và ven biển, có thể gia tăng nếu không có giải pháp quản lý hiệu quả.
Cần phục hồi những vùng đất ngập nước bị suy thoái
Xây dựng kế hoạch hành động quốc gia
Ngày 29/7/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2019/NĐ-CP ngày về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã xây dựng dự thảo và trình ban hành Kế hoạch Hành động quốc gia về bảo tồn và sử dụng bền vững đất ngập nước giai đoạn 2020 đến 2030.
Theo dự thảo này, đến năm 2025, Việt Nam sẽ kiện toàn hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý và cơ chế phối hợp liên ngành cấp Trung ương và địa phương về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước; hoàn thành việc kiểm kê, phân loại đất ngập nước Việt Nam và lồng ghép cơ sở dữ liệu về các vùng đất ngập nước vào cơ sở dữ liệu quốc gia về đa dạng sinh học, dữ liệu kiểm kê đất đai.
Đến năm 2030, Việt Nam sẽ đảm bảo tất cả các vùng đất ngập nước quan trọng trên toàn quốc được tổ chức quản lý, bảo tồn và sử dụng khôn khéo cùng với việc phục hồi 25% diện tích các vùng đất ngập nước quan trọng; thành lập ít nhất 10 khu bảo tồn đất ngập nước và đề cử thành công ít nhất 5 khu Ramsar trên toàn quốc.
Quỳnh Anh