Với điều kiện địa lý nên Bến Tre sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những tác động của biến đổi khí hậu gây ra như triều cường, nước biển dâng, xâm nhập mặn… làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của cộng đồng. Theo dự báo của các chuyên gia nghiên cứu về biến đổi khí hậu, nếu mực nước biển dâng 0,75-1m thì khoảng 60-70% diện tích tự nhiên của tỉnh bị ngập, một số khu vực ven biển đang bị xói lở mạnh, lấn sâu vào đất liền từ 20-30m/năm.
Sự xâm nhập mặn và hạn, độ mặn 4%0 đã xâm nhập sâu vào đất liền trên 60km tính từ các cửa sông trong những năm gần đây, hạn hán và xâm nhập mặn làm thiếu nước ngọt sinh hoạt và ảnh hưởng sản xuất, tính từ năm 1995-2008 đã làm thiệt hại hơn 670 tỷ đồng. Bão, áp thấp nhiệt đới tuy không thường xuyên gây ảnh hưởng trực tiếp nhưng các năm gần đây tình hình thời tiết, khí hậu diễn biến phức tạp, thường xảy ra vào những tháng cuối năm gây thiệt hại lớn về người và tài sản cho nhân dân như cơn bão số 5 (tháng 11-1997) và cơn bão số 9 (tháng 12-2006), ước thiệt hại hàng tỷ đồng…
Lực lượng kiểm lâm phối hợp với lực lượng Ban Quản lý rừng phòng hộ – đặc dụng Ba Tri tuần tra bảo vệ diện tích rừng ngập mặn tại xã An Thủy, huyện Ba Tri. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Theo ông Nguyễn Hữu Bé – Phó Chi cục Trưởng Kiểm Lâm Bến Tre, diện tích rừng ngập mặn ở Bến Tre ngoài việc cung cấp nguồn gỗ, củi và đặc biệt là chức năng phòng hộ chống xói lở, duy trì cân bằng sinh thái ở vùng cửa sông, còn có tác dụng bảo vệ tính đa dạng sinh học, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sản xuất lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, cung cấp nguồn giống động thực vật và an ninh quốc phòng vùng ven biển. Với vai trò quan trọng của đất rừng ở địa phương, tỉnh tiến hành xây dựng hai dự án trên ba huyện vùng rừng ngập mặn ven biển ở tỉnh Bến Tre. Đó là Dự án rừng phòng hộ ven biển với diện tích 5.351 ha ở huyện Ba Tri, Bình Đại và xây dựng Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước ở Thạnh Phú với diện tích 2.584 ha.
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Nguyễn Minh Cảnh, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho toàn thể cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm trong công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Bến Tre tập trung rà soát lại đất đai để điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất lâm nghiệp cho phù hợp với tiêu chí của 3 loại rừng và phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Đối với những phần diện tích có khả năng phát triển rừng, tỉnh sẽ tập trung trồng bằng nhiều nguồn như: ngân sách, vận động tài trợ của các tổ chức, cá nhân. Việc này đang được Bến Tre thực hiện khá tốt và kết hợp với triển khai thực hiện Đề án trồng 10 triệu cây xanh trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021 – 2025.
Tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện phương án quản lý rừng bền vững theo đúng quy định; đẩy nhanh tiến độ giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình theo đúng quy định pháp luật. Trên cơ sở đó, tỉnh xây dựng phương án giao khoán ổn định, lâu dài cho nhân dân quản lý sử dụng.
Cùng đó, tỉnh quản lý, giám sát chặt chẽ các dự án có chuyển đổi mục đích sử dụng rừng; kiên quyết đình chỉ, thu hồi đất các dự án chuyển đổi mục đích sử dụng rừng có sai phạm hoặc có nguy cơ gây thiệt hại về rừng, môi trường sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và đời sống của người dân. Bến Tre sẽ lồng ghép các dự án phát triển lâm nghiệp với các chương trình, dự án sinh kế, phát triển nông thôn trên địa bàn để bảo vệ và phát triển rừng, góp phần nâng cao mức sống cho người dân nông thôn trong tỉnh.
Hiện nay, tỉnh Bến Tre đã đưa vào quy hoạch 8.840 ha đất rừng ngập mặn. Trong đó, đất có rừng khoảng 4.368 ha, tập trung tại các xã thuộc ba huyện ven biển gồm: Thạnh Phú, Ba Tri và Bình Đại. Rừng tại Bến Tre chủ yếu là rừng ngập mặn với loài cây phổ biến là bần, mắm, cây có giá trị kinh tế thấp và đa phần là rừng trồng. Tuy nhiên, với đặc điểm ven biển, rừng ngập mặn có vai trò rất quan trọng trong việc chắn gió, chắn sóng, góp phần tạo cảnh quan, bảo vệ bờ biển, bảo vệ môi trường, nhất là bảo vệ an toàn đời sống dân cư phía bên trong rừng.
Theo Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, để khuyến khích người dân tham gia trồng, quản lý bảo vệ rừng gắn với phát triển sản xuất, tỉnh đã thực hiện giao khoán cho 520 tổ chức, cá nhân và hộ gia đình quản lý bảo vệ rừng theo Nghị định số 168/2016/NĐ-CP của Chính phủ, với tổng diện tích là 3.364 ha. Theo chính sách này, người dân địa phương sẽ được trả chi phí bảo vệ rừng và được hưởng toàn bộ thành quả nuôi trồng thủy sản kết hợp dưới tán rừng trên diện tích được giao khoán và sản phẩm tỉa thưa, khai thác khi rừng đến tuổi.
Theo đánh giá của UBND tỉnh Bến Tre, diện tích rừng trên đại bàn tỉnh hằng năm có tăng nhưng không nhiều. Rừng trồng, rừng tự nhiên có năng suất và chất lượng thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Nguyên nhân là do quy hoạch bảo vệ, phát triển rừng chưa sát thực tế.
Diện tích đất quy hoạch trồng phát triển rừng của tỉnh chủ yếu là các bãi bồi ven biển. Do tác động của sóng biển, dòng chảy làm hạn chế sự bồi tụ của đất hoặc gây xói lở nên không thể trồng rừng được. Mặt khác, xói lở còn gây thiệt hại giảm cả diện tích rừng hiện có của tỉnh. Theo số liệu thống kê của ngành Nông nghiệp tỉnh, trong vòng 10 năm (2011 -2020), xâm thực bờ biển tại Bến Tre làm thiệt hại 260 ha rừng ngập mặn.
Phương Hiền