Ngày 9/11, tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã diễn ra Tọa đàm công bố Báo cáo quốc gia về Chính sách môi trường ở Việt Nam:
Báo cáo cung cấp một cái nhìn tổng quan về những vấn đề môi trường cấp thiết mà Việt Nam đang phải đối mặt và những chính sách, biện pháp cụ thể nhằm giảm thiểu, loại bỏ hay ngăn chặn các vấn đề đó.
Tọa đàm diễn ra theo hình thức trực tiếp và trực tuyến
Trình bày các kết quả nghiên cứu chính trong Báo cáo “Chính sách môi trường ở Việt Nam”, TS. Detlef Briesen, Đại học Justus Liebig Giessen – đồng chủ biên của báo cáo cho biết: Trái đất và toàn bộ sinh quyển trên hành tinh đang phải đối mặt với những mối đe dọa lớn gây ra bởi biến đổi khí hậu. Là một đất nước nhiệt đới với đường bờ biển dài, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Ngoài những vấn đề môi trường toàn cầu, Việt Nam cũng phải đối mặt với các thách thức môi trường lớn trong nước. Quá trình phát triển của các thành phố, của nền kinh tế, hệ thống giao thông vận tải và sự tăng trưởng mạnh mẽ của sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đã dẫn đến ô nhiễm không khí, nước và đất và những thiệt hại nghiêm trọng đối với hệ động, thực vật của đất nước.
Việt Nam thông qua Luật Bảo vệ Môi trường đầu tiên vào năm 1993. Sau hai lần sửa đổi, việc thông qua Luật Bảo vệ Môi trường mới vào năm 2020 thể hiện bước đổi mới quan trọng nhất của hệ thống chính sách về môi trường quốc gia. Có hiệu lực từ tháng 1 năm 2022, Luật Bảo vệ Môi trường mới sẽ tạo một khung pháp lý vững chắc cho các công cụ chính sách bao gồm giấy phép môi trường, kinh tế tuần hoàn, mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất và nhiều công cụ chính sách khác.
Ông Michael Siegner, Trưởng đại diện Tổ chức Hanns Seidel Foundation tại Việt Nam phát biểu: “Nhằm cải thiện hiệu quả của các chính sách môi trường, báo cáo đưa ra một số khuyến nghị: Đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường phối hợp giữa chính sách môi trường với các chính sách khác của nhà nước, kiểm soát chặt chẽ hơn các chuỗi sản xuất, tăng nguồn lực tài chính, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và chống lại sự xâm nhập của các loài ngoại lai, quy hoạch hệ thống giao thông phù hơp với nhu cầu của người dân, nâng cao chất lượng vận tải hành khách công cộng, hay thực hiện các chiến dịch nâng cao nhận thức của người dân và chính quyền.
Theo GS. TS. Phạm Quang Minh, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đồng chủ biên của báo cáo, “bảo vệ môi trường bây giờ cũng quan trọng và khó khăn không kém bảo vệ Tổ quốc trước sự tấn công của kẻ thù, mà một trong những kẻ thù đó đôi khi là chính mình”.
Bảo vệ môi trường là vấn đề không thể nào không quan tâm hiện nay, vì những tác động của nó ảnh hưởng đến quá trình phát triển thậm chí là sự tồn vong của đất nước. Vì vậy, Báo cáo cũng một lần nữa như hồi chuông cảnh báo xã hội hơn lúc nào hết phải chung tay hành động bảo vệ môi trường. Đồng thời, Báo cáo cũng là kênh cung cấp, hệ thống cơ bản về những vấn đề môi trường đáng quan tâm hiện nay ở Việt Nam. Như Thủ tướng Phạm Minh Chính nói, cam kết của Việt Nam về hành động bảo vệ môi trường ngang bằng với các nước phát triển và cao hơn của nhiều nước đang phát triển khác. Một điều đặc biệt là Báo cáo này ra đời đúng thời điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021 (COP26), ở Glasgow (Vương quốc Anh), GS. TS. Phạm Quang Minh chia sẻ.
Các đại biểu chụp hình lưu niệm tại sự kiện
GS.TS. Mai Trọng Nhuận, Chuyên gia cao cấp của Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn chính sách biến đổi khí hậu, Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu đánh giá tình toàn diện của Báo cáo thể hiện rằng, Báo cáo đã đề cập tương đối đầy đủ các vấn đề nóng về môi trường ở Việt Nam như: Ô nhiễm môi trường trong sản xuất mỏ, sản xuất công nghiệp, môi trường nông thôn liên quan đến an ninh lương thực, an toàn thực phẩm, tác động đến nhận thức của người dân, tác động của vấn đề đa dạng sinh học. Đồng thời, Báo cáo cũng phân tích các tác động của chính sách môi trường đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Báo cáo thể hiện tính phản biện, đa chiều về chính sách mang đến cái nhìn khách quan hơn về chính sách môi trường ở Việt Nam, như hồi chuông cho các nhà hoạch định chính sách quan tâm, điều chỉnh tốt hơn, phù hợp hơn về công tác bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững.
Vì vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần nhiều hơn nữa những Báo cáo tương tự mà ở đó đề cập nhiều hơn đến các vấn đề môi trường nóng khác như, ô nhiễm môi trường nông thôn, ô nhiễm môi trường do hoạt động sản xuất nông nghiệp, vấn đề phát thải khí nhà kính, rác thải đại dương, năng lượng tái tạo, lượng hóa những đóng góp của ngành tài nguyên môi trường nói chung trong phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ sức khỏe người dân.
Lương Nguyễn