Ứng phó với biến đổi khí hậu, hành động bảo vệ các vùng đất ngập nước giàu tài nguyên và đa dạng sinh học của Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước xác định là một trong những mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
Tấm "lá chắn" bảo vệ
Vùng đất ngập nước có vai trò lớn đối với con người và thiên nhiên, bởi nó có thể lọc các chất độc hại; lưu trữ các-bon giúp chống lại các tác động của biến đổi khí hậu; giúp giảm thiểu các tác động tiêu cực trong điều kiện thời tiết cực đoan; lưu trữ nước mưa, nước chảy tràn khi bão giúp giảm lũ lụt và hỗ trợ nước khi hạn hán; bảo đảm đa dạng sinh học, là môi trường sống của hơn 100 nghìn loài sinh vật; bảo đảm nguồn cung cấp thức ăn và tạo nên các nguồn sinh kế cho khá nhiều người dân.
Hiện nay, vùng đất ngập nước cung cấp gạo cho 3,5 tỷ người trên thế giới; hơn một tỷ người hiện đang sinh sống dựa vào các vùng đất ngập nước và có tới 40% các loài sinh vật sống hoặc dựa vào những vùng đất ngập nước.
Trong điều kiện tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, tần suất các thảm họa trên toàn thế giới đã tăng hơn gấp đôi chỉ sau 35 năm. Điều đáng lưu ý là 90% các thảm họa này có liên quan đến nước.
Các vùng đất ngập nước đang đóng một vai trò quan trọng trong việc ổn định khí nhà kính và giảm bớt các tác động của biến đổi khí hậu.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, đất ngập nước có thể làm giảm những tác động từ sự biến đổi khí hậu, mặc dù chúng chỉ chiếm 6-8% diện tích bề mặt Trái Đất. Do chu trình trao đổi chất và nước trong các hệ sinh thái, nhờ lớp phủ thực vật của đất ngập nước, sự cân bằng của khí ô xi và cacbonic trong khí quyển làm cho khí hậu địa phương được ổn định, đặc biệt là về nhiệt độ và lượng mưa.
Việt Nam có 9 khu Ramsar (đất ngập nước) và nhiều khu bảo tồn, vùng đất ngập nước có vai trò và giá trị quan trọng về kinh tế, xã hội, môi trường và văn hóa.
Đặc biệt, các ramsar có khả năng chắn sóng làm giảm xói lở bờ biển, giảm thiệt hại do bão, lũ và sóng thần ở vùng ven biển trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Đất ngập nước giữ và điều hòa lượng nước mưa như “bồn chứa” tự nhiên, giải phóng nước lũ từ từ, từ đó có thể giảm hoặc hạn chế lũ lụt ở vùng hạ lưu. Nước được thấm từ các vùng đất ngập nước xuống các tầng ngập nước trong lòng đất, nước được giữ ở đó và điều tiết thành dòng chảy bề mặt ở vùng đất ngập nước khác để con người sử dụng.
Các vùng đất ngập nước cung cấp sinh kế cho con người. Sự đa dạng sinh học vùng đất ngập nước góp phần làm sạch nguồn nước, chất ô nhiễm; bảo vệ, giảm thiểu tác động của bão, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng ngập mặn, rạn san hô là tấm chắn bảo vệ vùng ven biển.
Theo Cục Bảo vệ thiên nhiên và đa dạng sinh học, rừng ngập mặn có chức năng chống lại sự tàn phá của sóng thần nhờ hai phương thức khác nhau.
Khi năng lượng sóng thần ở mức trung bình, rặng cây ở vùng nước ngập mặn vẫn có thể đứng vững, bảo vệ hệ sinh thái và bảo vệ cộng đồng dân cư sinh sống phía sau vì chúng mặn mọc đan xen, rễ cây phát triển cả trên và dưới mặt đất cộng với thân và tán lá cây cùng kết hợp để phân tán sức mạnh của sóng thần.
Khi năng lượng sóng thần đủ lớn để có thể cuốn trôi những cánh rừng ngập mặn thì chúng vẫn có thể hấp thụ nguồn năng lượng khổng lồ của sóng thần bằng cách hy sinh chính mình để bảo vệ cuộc sống con người.
Rễ cây ngập mặn có khả năng phát triển mạnh mẽ cả về mức độ rậm rạp và sự dàn trải. Khi cây ngập mặn bị đổ xuống thì rễ cây dưới mặt đất tạo ra một hệ thống dày đặc ngăn cản dòng nước.
Việt Nam có khoảng 12 triệu ha đất ngập nước, chiếm khoảng 37% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước. Các hệ sinh thái đất ngập nước tự nhiên quan trọng như các hồ, đầm, rừng ngập mặn, vùng đất ngập nước ven biển rất có giá trị về đa dạng sinh học.
Tuy nhiên, chất lượng đa dạng sinh học và các hệ sinh thái đất ngập nước của Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ suy thoái ngày một nghiêm trọng, nhất là các hệ sinh thái vùng biển triều, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn cùng các loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao, quý hiếm đang bị giảm sút nhanh chóng về cả số lượng và quy mô, diện tích phân bố.
Các hành động làm suy thoái đất ngập nước
Các vùng đất ngập nước đang ngày càng bị tác động mạnh mẽ do các hoạt động phát triển kinh tế của con người và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu.
Nhiều vùng đất ngập nước đã bị biến mất và diện tích các vùng đất ngập nước bị thu hẹp do gia tăng sức ép khai thác, sử dụng đất ngập nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên các vùng đất ngập nước; giảm chất lượng đất và nước, thay đổi cấu trúc và chức năng dịch vụ hệ sinh thái ở nhiều vùng đất ngập nước trên toàn quốc.
Theo đánh giá của Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, sự suy thoái và mất đất ngập nước chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng đất và xây dựng cơ sở hạ tầng, khai thác nước, ô nhiễm môi trường và khai thác quá mức.
Các chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất như chuyển từ đất cạn sang đất ngập nước (đắp đập thuỷ điện, hồ chứa, nuôi trồng thuỷ sản, quai đê lấn biển, tái định cư …) hoặc thay đổi chế độ thủy văn đã làm suy giảm các giá trị của nhiều vùng đất ngập nước.
Sự mất mát có xu hướng nhanh hơn ở những khu vực có tốc độ gia tăng dân số cao nhất và những khu vực có nhu cầu phát triển kinh tế lớn nhất. Hàng loạt nguyên nhân gây ra việc đất ngập nước tiếp tục bị mất và suy thoái liên quan đến kinh tế, bao gồm cả trợ cấp bảo hộ.
Biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ tiếp tục làm trầm trọng thêm sự mất mát và suy thoái đa dạng sinh học đất ngập nước, bao gồm các loài không thể di chuyển và các loài di cư sống phụ thuộc vào một số vùng đất ngập nước ở các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống.
Theo Sách đỏ năm 2012 của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới, tại Việt Nam có ít nhất 135 loài đang bị đe dọa trên toàn cầu đang cư trú tại các sinh cảnh nước ngọt lục địa, bãi triều và ven biển. Số liệu này có thể gia tăng nếu không có giải pháp quản lý hiệu quả.
Hiện trạng sử dụng hệ sinh thái đất ngập nước - nước ngọt và khai thác thủy sản phụ thuộc vào sự tái sinh tự nhiên. Tại một số khu vực sự tái sinh tự nhiên hiện nay vượt quá mức có thể duy trì cho nhu cầu hiện tại nhưng lại giảm đi so với nhu cầu trong tương lai.
Sự suy thoái và mất đất ngập nước có thể dẫn đến sự suy giảm hơn nữa chất lượng cuộc sống của con người, đặc biệt đối với những người nghèo và các khu vực chưa có các giải pháp công nghệ.
Nhận thức chưa đúng đắn về tầm quan trọng, giá trị và chức năng của vùng đất ngập nước dẫn đến việc nhiều vùng đất ngập nước còn bị coi là đất hoang hoá. Các dịch vụ hệ sinh thái của vùng đất ngập nước chưa được chú trọng trong các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
Mặt khác, nguồn lực về tài chính, cơ chế đầu tư trong quản lý đất ngập nước còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước, hạn chế hiệu quả quản lý các hệ sinh thái, khu bảo tồn vùng đất ngập nước của Việt Nam…
Hoàn thiện thể chế chính sách
Hiện nay, nhờ tính đa dạng của các kiểu loại ĐNN đã tạo nên sự phong phú về loài, cung cấp lương thực, thủy sản phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu đạt gần 10 tỷ USD (năm 2016). Vì vậy, việc bảo tồn, phát triển bền vững các vùng ĐNN giàu tài nguyên và ĐDSH luôn được Việt Nam xác định là một trong những mục tiêu phát triển bền vững của đất nước thời gian qua.
Tuy nhiên, các chuyên gia trong lĩnh vực bảo tồn ĐDSH đều chung nhận định: Công tác quản lý ĐNN ở Việt Nam còn gặp không ít khó khăn như: ngày càng chịu tác động mạnh mẽ do các hoạt động phát triển kinh tế của con người và của biến đổi khí hậu dẫn đến nhiều vùng ĐNN đã bị biến mất; diện tích các vùng ĐNN bị suy giảm do sức ép khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên dẫn đến ĐDSH bị suy giảm, số lượng các loài nguy cấp, quý hiếm đang ở mức đe dọa do đánh bắt quá mức.
Đáng lo ngại, một số khu vực ĐNN tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long bị xây đê bao ngăn lũ, khiến hệ sinh thái bị ảnh hưởng nghiêm trọng do bị cô lập và giảm kết nối với khu vực chung quanh. Mặt khác, hệ thống pháp luật về ĐNN ở Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành, lĩnh vực liên quan đến ĐNN còn thiếu sự thống nhất và chưa rõ ràng như: việc quản lý, phục hồi, sử dụng bền vững các vùng ĐNN có giá trị ĐDSH chưa được quy định đầy đủ; thiếu quy định về cơ chế chia sẻ lợi ích các bên liên quan trong sử dụng tài nguyên ĐNN; thiếu các chính sách hỗ trợ cho công tác bảo tồn ĐDSH vùng ĐNN...
"Gỡ" nút thắt pháp lý
Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực ASEAN và thứ 50 trên thế giới chính thức tham gia Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là nơi cư trú của các loài chim nước (Công ước Ramsar).
Nghị định số 109/2003/NĐ-CP là văn bản pháp lý đầu tiên quy định trực tiếp đến bảo tồn, sử dụng bền vững đất ngập nước, góp phần thực hiện hiệu quả cam kết của Việt Nam là quốc gia thành viên Công ước Ramsar.
Tháng 11/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 1975/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu bảo tồn, sử dụng bền vững đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái của các vùng đất ngập nước, góp phần phát triển bền vững kinh tế-xã hội, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế.
Đến năm 2025, Việt Nam hoàn thành việc điều tra, thống kê, kiểm kê diện tích các vùng đất ngập nước trên phạm vi toàn quốc; xác lập được các vùng đất ngập nước quan trọng, các vùng đất ngập nước quan trọng có dấu hiệu bị suy thoái và xây dựng được cơ sở dữ liệu về các vùng đất ngập nước quan trọng.
Đến năm 2030, các vùng đất ngập nước quan trọng trên toàn quốc được kiểm soát có hiệu quả việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất và phát triển các hoạt động, chương trình du lịch sinh thái, du lịch thân thiện với môi trường; chi trả dịch vụ hệ sinh thái đối với vùng đất ngập nước quan trọng được áp dụng tại khu bảo tồn đất ngập nước, khu Ramsar; năng lực và trang thiết bị cho các tổ chức, cá nhân làm công tác bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước quan trọng được tăng cường.
Để thực hiện thành công các mục tiêu và nhiệm vụ, 6 nhóm giải pháp được tập trung gồm: hoàn thiện các văn bản chính sách, pháp luật về quản lý các vùng đất ngập nước; tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý về đất ngập nước; đa dạng hóa nguồn lực cho bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức, tăng cường thực thi pháp luật về bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên đất ngập nước; thúc đẩy hoạt động nghiên cứu về bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên đất ngập nước; tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo tồn và sử dụng bền vững đất ngập nước.
Tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ 14 Công ước Ramsar diễn ra vào cuối năm 2022, Đoàn Việt Nam đã tham dự nhiều sự kiện chính thức và bên lề Hội nghị nhằm học hỏi, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm về quản lý và bảo tồn đất ngập nước. Các đại biểu quốc tế đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong xây dựng khung pháp lý bảo tồn đất ngập nước; các quy định của Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định số 66/2019/NĐ-CP về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước; hiện trạng bảo tồn chim hoang dã di cư và các nhiệm vụ đặt ra tại Chỉ thị số 04/CT-TTg của Chính phủ; các nội dung ưu tiên trong bảo tồn đất ngập nước và chim nước di cư tại Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học.
Để đảm bảo thực hiện hiệu quả Công ước Ramsar trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tập trung ưu tiên hoàn thiện cơ chế, chính sách cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước; tăng cường tính thực thi pháp luật và đảm bảo các nguồn lực để triển khai thực hiện các hoạt động về bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học tại các vùng đất ngập nước trên toàn quốc.
Bên cạnh tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, Việt Nam cũng sẽ thúc đẩy các hoạt động bảo tồn và sử dụng khôn khéo đất ngập nước thông qua việc thành lập các khu bảo tồn đất ngập nước, đảm bảo cơ chế chia sẻ lợi ích giữa các bên liên quan. Việc mở rộng các khu Ramsar và đẩy mạnh hoạt động của Mạng lưới các khu Ramsar cũng sẽ góp phần tăng cường hiệu quả quản lý, đảm bảo duy trì các đặc tính sinh thái của khu đất ngập nước. Cùng với đó, đẩy mạnh công tác thống kê, kiểm kê, điều tra, đánh giá và quan trắc các vùng ĐNN, nhất là các vùng có vị trí quan trọng cấp quốc gia, quốc tế; Coi trọng xây dựng, bảo đảm nguồn lực con người, tài chính, cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư, bảo tồn, sử dụng các khu vực ngập nước; phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương và với các tổ chức quốc tế,… nhằm bảo tồn, sử dụng bền vững các vùng ĐNN, góp phần phát triển kinh tế, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tạo sinh kế cho người dân nơi vùng đất ngập nước
Là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong những năm qua, Long An đã chịu ảnh hưởng nặng nề do tác động của BĐKH, như: mưa, lũ, ngập úng kéo dài và tình trạng xâm nhập mặn. Những tác động này đã ảnh hưởng không nhỏ đối với môi trường sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân địa phương.
Trước thực trạng đó, UBND tỉnh Long An đã ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH tỉnh Long An giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2050. Trong đó, một trong những giải pháp quan trọng mà địa phương đã triển khai thực hiện đạt hiệu quả, đó là đẩy mạnh trồng rừng và trồng cây xanh phân tán nhằm tăng khả năng, sức chống chịu với thiên tai, bão lũ cũng như tạo sinh kế cho người dân vùng đất ngập nước.
Theo ngành chức năng Long An, trong thời gian qua, ngoài công tác trồng rừng, tỉnh Long An cũng luôn quan tâm đến công tác bảo vệ và chăm sóc rừng. Trong đó, ngoài lực lượng Kiểm lâm và chính quyền địa phương, tỉnh còn xác định công tác bảo vệ rừng phải dựa vào người dân. Do vậy, việc chăm lo cho đời sống của người dân là một phần không thể thiếu trong công tác bảo vệ và phát triển rừng.
Điển hình là Khu Bảo tồn đất ngập nước Láng Sen có tổng diện tích đất lâm nghiệp gần 2.000 ha, chủ yếu là rừng tràm với lớp thực bì dày, rất dễ gây cháy. Nơi đây đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền sâu rộng trong người dân nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng, tự giác chấp hành nghiêm các quy định về bảo vệ rừng và phòng chống cháy rừng. Đặc biệt, có 100% hộ dân sinh sống quanh khu vực cam kết không xâm nhập vào rừng khai thác lâm sản và săn bắt chim, thú rừng trái phép, không được mang các thiết bị, dụng cụ có nguy cơ cháy, nổ vào rừng.
Qua đó, người dân cũng được nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, vốn là chìa khóa để giải quyết những vấn đề ở địa phương một cách bền vững; đồng thời, ứng phó tốt hơn với những bất thường từ thiên nhiên, nhờ vào diện tích che phủ rừng và khả năng tích trữ nguồn nước được cải thiện, giảm thiểu tác hại của lũ lụt và hạn hán cho toàn vùng Đồng Tháp Mười và hạ lưu sông Mekong.
Ngoài ra, Việt Nam còn có các mô hình cộng đồng quản lý trực tiếp các khu đất ngập nước có giá trị đa dạng sinh học cao như các vườn chim ở Bạc Liêu (Vườn Chim Sỹ Sáu), Cà Mau, Kiên Giang và các khu vực ở phía Bắc. Nhiều địa phương hoặc hộ gia đình đã chủ động khoanh vi, bảo vệ các khu đất ngập nước hoặc đề nghị thành lập khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước như khu bảo tồn ở Phú Mỹ (Kiên Giang), Đông Xuyên (Bắc Ninh).
Theo Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, hiện có nhiều dự án trực tiếp hoặc gián tiếp đến bảo tồn và sử dụng bền vững đất ngập nước nhằm tăng cường hiệu quả quản lý đất ngập nước và thực thi Công ước Ramsar.
Một trong những hiệu quả nổi bật của các dự án là xác định được các vùng đất ngập nước quan trọng cần khoanh vi, bảo tồn; hỗ trợ kiện toàn hành lang pháp lý nhằm tăng cường năng lực quản lý đất ngập nước, thành lập các khu bảo tồn đất ngập nước; kiểm kê các vùng đất ngập nước để đề xuất các giải pháp bảo tồn và sử dụng bền vững trên toàn quốc.
Kết nối và mở rộng hợp tác quốc tế
Tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ 14 (COP 14) Công ước Ramsar diễn ra vào cuối năm 2022, các quốc gia thành viên đã thống nhất thông qua các Nghị quyết và cam kết bảo tồn, sử dụng khôn khéo các vùng đất ngập nước trước các áp lực phát triển và biến đổi khí hậu toàn cầu. Đây chính căn căn cứ để thúc đẩy các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị quan trọng của các vùng ĐNN vào nỗ lực chung ứng phó BĐKH toàn cầu, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, hưởng ứng lời kêu gọi của Đại Hội đồng Liên hợp quốc về Thập kỷ “Phục hồi hệ sinh thái” (giai đoạn 2021 – 2030).
Trong khuôn khổ Hội nghị COP 14, Đoàn Việt Nam đã tham dự nhiều sự kiện chính thức và bên lề Hội nghị nhằm học hỏi, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm về quản lý và bảo tồn đất ngập nước. Các đại biểu quốc tế đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong xây dựng khung pháp lý bảo tồn đất ngập nước (ĐNN); các quy định của Luật Bảo vệ Môi trường và Nghị định số 66/2019/NĐ-CP về bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng ĐNN; hiện trạng bảo tồn chim hoang dã di cư và các nhiệm vụ đặt ra tại Chỉ thị số 04/CT-TTg của Chính phủ; các nội dung ưu tiên trong bảo tồn ĐNN và chim nước di cư tại Chiến lược quốc gia về ĐDSH.
Đại diện Việt Nam cũng chia sẻ các lĩnh vực tiềm năng hợp tác nhằm thúc đẩy Sáng kiến đường bay khu vực (RFI) tại Việt Nam, trong đó, nhấn mạnh tầm quan trọng và nhu cầu nghiên cứu, xây dựng cơ chế chia sẻ dịch vụ hệ sinh thái các vùng ĐNN, nhằm tạo ra cơ chế tài chính bền vững, phục vụ bảo tồn các vùng ĐNN quan trọng của Việt Nam. Trên cơ sở này, Việt Nam cũng sẽ tăng cường sự hợp tác với các quốc gia thành viên Công ước Ramsar, học tập các mô hình thành công trong quản lý ĐNN, thực hiện Công ước Ramsar cũng như huy động các nguồn lực quốc tế hỗ trợ về bảo tồn và sử dụng khôn khéo ĐNN ở Việt Nam.
Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam góp sức với việc phục hồi và bảo tồn các vùng đất ngập nước
Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam với ba định hướng là “Đưa nước sạch đến với người nghèo"; "Biến chất thải thành tài nguyên"; "Cùng cộng đồng ứng phó với biến đổi khí hậu".
Với việc thực hiện định hướng "Cùng cộng đồng ứng phó với biến đổi khí hậu" của Hội, hưởng ứng Chương trình trồng 1 tỷ cây xanh Vì một Việt Nam xanh của Thủ tướng chính phủ giai đoạn 2021-2025. Hưởng ứng Cam kết của Việt Nam tại COP26 phấn đấu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và 2 cam kết tham gia sáng kiến Giảm phát thải khí methan toàn cầu và cam kết thực hiện tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất.
Tại gala kỷ niệm 20 năm thành lập Hội, Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam đã tổ chức lễ khởi động dự án trồng 10 triệu cây xanh, bắt đầu từ năm 2023. Điểm khởi động tại Khu bảo tồn đất ngập nước RAMSAR Láng Sen tỉnh Long An, là khu Ramsar thứ 7 của Việt Nam. Dự án sẽ kêu gọi các hội viên, các doanh nghiệp, các quỹ tín dụng xanh đồng hành và tài trợ.
Việc bảo tồn, sử dụng bền vững đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái của các vùng đất ngập nước (khu Ramsar), góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học, lưu trữ carbon, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường.