Đề xuất xử phạt vi phạm môi trường nghiêm như xử lý nồng độ cồn
Tại phiên thảo luận chiều 28/10 về báo cáo giám sát công tác bảo vệ môi trường, nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị cần siết chặt chế tài xử phạt trong lĩnh vực môi trường, tương tự như cách làm với vi phạm nồng độ cồn trong thời gian qua nhằm tạo sức răn đe và thay đổi hành vi của người dân.
Pháp luật phải đủ mạnh để thay đổi nhận thức
Đại biểu Nguyễn Công Hoàng, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, cho rằng hiệu quả của việc xử lý nghiêm vi phạm nồng độ cồn là minh chứng rõ rệt cho sức mạnh của pháp luật khi được thực thi quyết liệt. Ông đặt vấn đề: Nếu chúng ta có thể nghiêm túc, kiên quyết như vậy với các hành vi gây ô nhiễm môi trường, liệu kết quả có thay đổi tích cực như thế không?

Theo ông Hoàng, nhiều quốc gia đã chứng minh việc áp dụng chế tài nghiêm minh có thể thay đổi hành vi cộng đồng. Ông dẫn ví dụ Singapore – nơi chỉ cần vứt một chiếc tăm xuống đường cũng bị phạt 200 đôla Singapore, tái phạm có thể bị phạt tới 3.000 đôla và buộc lao động công ích.
"Những quy định nghiêm khắc ấy khiến cả các nước châu Âu cũng phải kính nể. Đó là điều chúng ta nên học tập nếu muốn môi trường được bảo vệ thực sự” - ông nói.
Đại biểu đề nghị Chính phủ nghiên cứu cơ chế xử phạt mạnh tay hơn trong lĩnh vực môi trường, không chỉ dừng ở mức hành chính. Đồng thời, ông gợi ý mỗi địa phương, cơ quan có thể triển khai các phong trào cụ thể như “Nói không với túi nylon”, “Hạn chế chai nhựa dùng một lần” để lan tỏa hành vi xanh trong cộng đồng.
Ông Hoàng cũng kiến nghị cần có bảng tiêu chí thi đua về môi trường tương tự các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội, coi việc bảo vệ môi trường là một tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo, quản lý của từng địa phương.
Cùng quan điểm, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) cảnh báo rằng khi GDP tăng, lượng rác thải cũng tăng theo cấp số nhân – từ rác nhựa, điện tử, đến hàng triệu phương tiện hết khấu hao. Ông nhấn mạnh: Nếu không quy hoạch đồng bộ xử lý chất thải, đất nước có thể giàu lên, nhưng người dân sẽ phải sống chung với rác, với không khí ô nhiễm và những dòng sông chết.
Ông Nghĩa cho rằng đã đến lúc phải chuyển hướng phát triển từ mô hình “khai thác, tiêu thụ, bỏ đi” sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, khai thác “tài nguyên trí tuệ” thay vì tài nguyên thiên nhiên.
Coi rác là tài nguyên, không phải gánh nặng
Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa - Xã hội Tạ Văn Hạ, chính sách hiện hành vẫn nặng về quản lý, xử lý hành chính, mà thiếu cơ chế khuyến khích doanh nghiệp biến rác, nước thải, khí thải thành tài nguyên.
Ông nhận định, nhiều quốc gia đã thành công khi coi rác là nguyên liệu thứ cấp – một mắt xích của kinh tế tuần hoàn, hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 mà Việt Nam đã cam kết.
Tuy nhiên, khung pháp lý hiện nay chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư, chi phí xử lý chất thải vẫn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Ông dẫn chứng: giá nước sạch trung bình hiện chỉ khoảng 2.000 đồng/m³, trong khi công nghệ xử lý tiên tiến cần từ 5.000–7.000 đồng/m³. Vì vậy, cần có cơ chế hỗ trợ, miễn giảm thuế, ưu đãi điện năng cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này.
Đại biểu Nguyễn Quang Huân, Phó Chủ tịch Hội Nước và Môi trường Việt Nam, cho rằng Luật Bảo vệ môi trường 2020 được ban hành trong bối cảnh tư duy phát triển “đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng” vẫn phổ biến.
Ông nhấn mạnh: Chúng ta đã có những tiến bộ, nhưng nếu không đổi mới cách tiếp cận, ô nhiễm sẽ tiếp tục tích tụ. Không thể coi chôn lấp là biện pháp xử lý rác thải vì như vậy sẽ triệt tiêu động lực đầu tư tái chế.
Ông đề nghị sớm hoàn thiện hơn 300 quy chuẩn và tiêu chuẩn môi trường, đồng thời xác định rõ ràng lộ trình thực hiện kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn – lấy bảo vệ môi trường làm nền tảng cho phát triển bền vững.
Giữ màu xanh của rừng – giữ lá phổi của đất nước
Giải trình trước Quốc hội, Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho biết Việt Nam phát sinh khoảng 25,3 triệu tấn rác mỗi năm, trong đó có 1,8 triệu tấn rác nhựa. Hệ thống thu gom, phân loại, xử lý vẫn còn nhiều bất cập; ý thức người dân trong phân loại rác tại nguồn còn hạn chế.

Ông cho biết, Bộ đã trình Thủ tướng Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý chất lượng không khí giai đoạn 2026–2030, tầm nhìn 2045, trong đó tập trung kiểm soát nguồn phát thải, tăng cường quan trắc, cảnh báo, phát triển giao thông xanh và đẩy mạnh thanh tra, giám sát.
Liên quan đến bảo vệ rừng, Bộ trưởng thông tin hiện Việt Nam có hơn 14,87 triệu ha rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm 10,13 triệu ha; tỷ lệ che phủ đạt 42,03%, tăng 1,15% so với năm 2015. Thành quả này đến từ chính sách đóng cửa rừng tự nhiên từ năm 2016, kết hợp trồng mới và phục hồi rừng.
Bộ sẽ tiếp tục tham mưu Chính phủ gia hạn chính sách đóng cửa rừng tự nhiên đến năm 2030, đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng, nhất là rừng tự nhiên.




