Đồng bằng sông Cửu Long: Các kinh nghiệm đi trước trong phòng, chống hạn mặn mùa khô 2019 – 2020

Hoài Thương|11/02/2020 12:00
Theo dõi Môi trường & Cuộc sống trên

Moitruong.net.vn – Tại ĐBSCL, nhờ triển khai đồng bộ các giải pháp công trình, phi công trình nên thiệt hại đã được giảm thiểu, đời sống người dân không bị ảnh hưởng nhiều.

Viện Khoa học thủy lợi miền Nam nhận định đến ngày 16-2 tới, nước mặn sẽ xuất hiện với chiều sâu xâm nhập mặn lớn nhất khoảng 4‰, xâm nhập sâu hơn cùng kỳ năm 2016. Tình trạng khô hạn khốc liệt cũng được dự báo sớm và đang diễn ra. Những nguyên nhân nội tại và bên ngoài làm cho hạn mặn ngày càng khốc liệt hơn đã được chỉ rõ. Vấn đề là tình trạng hạn mặn diễn ra theo chu kỳ nhanh hơn, thay đổi thất thường, đòi hỏi sự chủ động thích ứng cùng các giải pháp ứng phó tốt hơn trước mắt và lâu dài.

Các dự án điều tiết nước đã giúp các địa phương trong vùng phòng chống hạn hán và xâm nhập mặn hiệu quả. Cống âu thuyền Ninh Quới trên kênh Quản Lộ – Phụng Hiệp góp phần điều tiết mặn – ngọt cho 3 tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng và Hậu Giang, ngăn tác hại tình trạng xâm nhập mặn vùng lúa, hoa màu trong tiểu vùng. Tiểu dự án Măng Thít ở tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, dự án Bắc Bến Tre, trạm bơm Xuân Hòa ở tỉnh Tiền Giang cũng kịp hoàn thành vào cuối năm 2019, bước đầu ứng phó hạn mặn.

Cống Vũng Liêm ngăn mặn giúp nông dân canh tác thuận lợi

Tuy nhiên, vẫn còn hơn 5.000ha lúa vùng bắc quốc lộ 1 tỉnh Bạc Liêu đang thiếu nước ngọt trầm trọng, 5.000ha nuôi tôm, một diện tích lớn tiểu vùng ngọt sản xuất rau màu đang bị đe dọa. Tình trạng tương tự cũng đang diễn ra ở các tỉnh vùng ven biển ĐBSCL.

Kinh nghiệm “sống cùng hạn mặn” trong dân gian cần tiếp tục phát huy. Từ bao đời nay, người dân ven biển đã biết dùng lu, khạp trữ ngọt mùa mưa dùng cho mùa khô. Lâu nay chúng ta xây dựng hệ thống thủy lợi chủ yếu để thoát lũ, nên chuyển sang trữ ngọt và dùng nước tiết kiệm. Từ xưa, cùng với mùa nước nổi, thiên nhiên đã hình thành các “túi nước tự nhiên” khổng lồ ở vùng Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên để trữ nước.

Tư duy đó cần được nâng tầm bằng việc rà soát, cập nhật, điều chỉnh quy hoạch tổng thể vùng, từng tiểu vùng, ngành, nhất là quy hoạch sản xuất, hạ tầng thủy lợi, giao thông. Sản xuất nông nghiệp cần áp dụng “3 chuyển dịch”: dịch chuyển lịch thời vụ để “né hạn mặn”, sử dụng giống phù hợp điều kiện hạn mặn và mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, vật nuôi hiệu quả kinh tế hơn cây lúa. Kèm theo đó là các giải pháp kỹ thuật, tín dụng, gắn với thị trường tiêu thụ nông sản để đảm bảo sự chuyển đổi thành công.

Tiếp cận theo vùng, liên vùng, phối hợp liên ngành cùng hành động mới mong thích ứng trước các biến đổi tự nhiên và xã hội. Vừa phòng tránh dịch bệnh vừa thích ứng, giảm tối thiểu thiệt hại hạn mặn gay gắt là một thách thức lớn. Những giải pháp công trình rất cần, nhưng các giải pháp phi công trình là không thể thiếu. Chính quyền và người dân không thể ngồi chờ, nhưng cũng không nên đổ tiền vội vã vào các công trình cục bộ. Bài toán cân bằng tổng thể và yêu cầu “chi phí – lợi ích” cần được đặt ra trước tiên cho bất kỳ một quyết định đầu tư nào.

Hạn mặn năm 2020 diễn ra gay gắt hơn năm 2016 nhưng đã được cảnh báo sớm. Thủ tướng Chính phủ cũng đã sớm có chỉ thị triển khai các giải pháp cấp bách phòng chống hạn mặn, thiệt hại có thể sẽ thấp hơn rất nhiều so với năm 2016 nếu được các ngành, các cấp, doanh nghiệp và người dân chủ động, tích cực phòng tránh. Lo dịch bệnh nhưng không quên hạn mặn cũng là yêu cầu cấp bách!

Thành công trong phòng chống hạn mặn năm nay là tập trung tuyên truyền, thay đổi nhận thức người dân, có giải pháp ứng phó thích ứng tốt. Bên cạnh các giải pháp ứng phó cấp bách, bảo vệ sản xuất và đời sống dân sinh khi hạn, mặn xâm nhập sâu thì về lâu dài, phải tổng kết, bổ sung hoàn thiệt tái cơ cấu nông nghiệp ở các địa phương. Những vùng khó khăn có thể chuyển đổi, bỏ hẳn cây lúa để chuyển sang trồng cỏ phục vụ chăn nuôi.

Ông Lữ Quang Ngời, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long cho biết, thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, Vĩnh Long đang tập trung phát triển cây màu theo hướng thâm canh và luân canh trên đất lúa. Trong đó, xác định khoai lang là cây trồng có lợi thế, đang tập trung phát triển thành thương hiệu.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường chỉ đạo, Vĩnh Long có 55 ngàn ha lúa đông xuân, đến nay đã thu hoạch hơn 50%, phần còn lại phải trữ nước ngọt đảm bảo cho thu hoạch.

Cống Vũng Liêm đi vào hoạt động kịp thời ngăn mặn

Đối với gần 5.000 ha lúa xuân hè nối vụ, phải xây dụng lại mô hình sản xuất, sang năm sau phải chuyển qua rau màu, cây trồng cạn. Diện tích cây ăn quả lâu năm, phải tập huấn cho người dân về các giải pháp canh tác, tưới tiết kiệm. Hơn 1.700 lồng bè nuôi cá, 213 cơ sở vùng nuôi cá tra, cần quan trắc môi trường nước thường xuyên, thông báo cho dân biết để đối phó, tuyệt đối không để thiệt hại.

Còn đối đối Sóc Trăng, vùng 1.000 – 2.000 ha mà nông dân thường sản xuất tăng vụ lúa, từ năm sau sẽ sử dụng cây trồng cạn, ngắn ngày như đậu xanh, đậu phộng… Trung tâm Khuyến nông nên xây dựng các mô hình để nông dân nhân rộng ra. Tỉnh phải tập trung tổ chức thực hiện ngay vùng sản xuất lúa ST đặc sản, theo hướng hữu cơ, trước mắt là để cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ nội địa.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đánh giá, năm nay dự báo từ Trung ương đến địa phương đều rất sát thực tế, nhận định là hạn hán nặng và có hành động thực tế. Riêng Sóc Trăng là 1 trong 7 tỉnh ven biển điển hình về hạn mặn ở ĐBSCL, nếu không quyết liệt thì sẽ thiệt hại, ảnh hưởng rất nặng nề. Sóc Trăng và Bạc Liêu có khu vực Ninh Quới, thường xảy ra tranh chấp hạn mặn, nhưng năm nay đã có công trình cống Âu thuyền Ninh Quới điều tiết nước, phát huy hiệu quả rất cao.

Hoài Thương

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Đồng bằng sông Cửu Long: Các kinh nghiệm đi trước trong phòng, chống hạn mặn mùa khô 2019 – 2020