Khai thác đất hiếm phải gắn với kiểm soát rủi ro môi trường
Theo Luật Địa chất và Khoáng sản (sửa đổi) mới được Quốc hội thông qua, đất hiếm được xác định là tài nguyên chiến lược cần quản lý thống nhất, khai thác gắn công nghệ hiện đại, hạn chế xuất khẩu thô và kiểm soát chặt rủi ro môi trường.
Sáng 11/12, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản. Kết quả cho thấy, có 421/432 đại biểu Quốc hội (ĐBQH) có mặt tham gia biểu quyết (chiếm tỷ lệ 89,01% tổng số ĐBQH) tán thành với việc thông qua Luật này.
Trước đó, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản. Theo đó, Chính phủ đã tiếp thu và phối hợp với các cơ quan có liên quan rà soát, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo về các vấn đề bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, quy định đầy đủ các trường hợp chuyển tiếp và một số vấn đề cụ thể khác.

Về cơ chế cấp phép khai thác khoáng sản phục vụ công trình công cộng, dự án trọng điểm, dự thảo Luật bổ sung quy định dự án đầu tư khai thác khoáng sản hoặc phương án khai thác khoáng sản phải có nội dung về kỹ thuật an toàn trong khai thác khoáng sản, bảo vệ môi trường, xác định mức ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Quy định này là một biện pháp cắt giảm thủ tục hành chính nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công 5 loại công trình, dự án đặc thù nhưng vẫn bảo đảm các yêu cầu về kỹ thuật, an toàn và bảo vệ môi trường.
Đất hiếm – trọng tâm lớn trong lần sửa đổi
Về quản lý đất hiếm, cơ quan chủ trì soạn thảo cho rằng, đây là nội dung rất quan trọng, các quy định về quản lý đất hiếm được thực hiện trên cơ sở chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước về chiến lược quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên đất hiếm phục vụ phát triển đất nước với những yêu cầu quản lý đặc thù và đặc biệt.

Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, dự thảo Luật đã quy định các cơ chế chặt chẽ trong việc quản lý đất hiếm trên nguyên tắc những nội dung mang tính chiến lược, định hướng phát triển sẽ do Chính phủ quyết định. Các nội dung kỹ thuật, nhiệm vụ quy định cụ thể trong văn bản dưới luật và giao thẩm quyền phù hợp cho các Bộ, ngành, địa phương. Bên cạnh đó, cơ quan chủ trì đã chỉnh lý quy định chung về quản lý đất hiếm với mục tiêu thăm dò, khai thác, chế biến phải đi đôi với việc hình thành chuỗi giá trị khép kín để tránh xuất khẩu như nguyên liệu thô; sử dụng công nghệ khai thác và chế biến hiện đại, ít phát thải, khẳng định vai trò quản lý thống nhất của Chính phủ trong định hướng thăm dò, khai thác đối với khoáng sản, đất hiếm.
Kết quả cho thấy, có 421/432 ĐBQH có mặt tham biểu quyết (chiếm tỷ lệ 89,01% tổng số ĐBQH) tán thành với việc thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Địa chất và khoáng sản.
Khoanh định khu vực không đấu giá, kiểm soát rủi ro từ gốc
Về tiêu chí quanh khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản, dự thảo Luật đã thiết kế nguyên tắc để khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản kèm những tiêu chí cụ thể với mục tiêu tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho nhà đầu tư thi công các công trình, dự án quan trọng, cấp bách cũng như các nhà đầu tư triển khai dự án chế biến khoáng sản có tác động lớn đến phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, Nghị định của Chính phủ sẽ quy định chi tiết các điều kiện, trình tự khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Cách làm này giúp kiểm soát rủi ro ngay từ khâu xác lập khu vực, không để xảy ra tình trạng lợi dụng chính sách.
Trước đó, trong cuộc họp diễn ra ngày 1/12, nhiều đại biểu Quốc hội nhấn mạnh rằng đất hiếm phải được xác định là tài nguyên chiến lược đặc biệt quan trọng, cần quản lý thống nhất ở cấp quốc gia. Việc bổ sung một chương riêng về đất hiếm trong Luật Địa chất và Khoáng sản (sửa đổi) được đánh giá là bước hoàn thiện pháp lý đúng thời điểm, khi thế giới đang cạnh tranh quyết liệt về vật liệu chiến lược và công nghệ cao.
Các đại biểu cho rằng quản lý đất hiếm phải dựa trên khoa học, công nghệ hiện đại và kiểm soát rủi ro nghiêm ngặt, bởi toàn bộ quá trình tuyển, tách đều phát sinh chất thải phóng xạ và kim loại nặng. Bài học quốc tế về ô nhiễm phóng xạ từ khai thác đất hiếm buộc Việt Nam phải đặt yêu cầu môi trường ở mức cao nhất.
Đồng thời, đất hiếm gắn chặt với an ninh – quốc phòng, nên việc thăm dò, khai thác tại khu vực nhạy cảm phải có ý kiến thẩm định của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Một số đại biểu đề nghị quy định khu dự trữ đất hiếm cho quốc phòng, kiểm soát chặt công nghệ và dữ liệu liên quan tài nguyên này.
Việc lựa chọn doanh nghiệp tham gia phải bảo đảm tiêu chí: năng lực công nghệ, tài chính mạnh, quản trị môi trường đạt chuẩn quốc tế, ưu tiên chế biến sâu và hình thành chuỗi giá trị khép kín, tránh xuất khẩu thô.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẳng định Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn và đang xây dựng chiến lược quốc gia về đất hiếm trình Chính phủ vào năm 2026, hướng đến khai thác gắn với chế biến sâu và lợi ích lâu dài của đất nước.

Ngoài ra, tại kỳ họp thứ 6 đã đưa ra các giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nhiều đại biểu Quốc hội tiếp tục nhấn mạnh rằng trữ lượng đất hiếm đứng thứ 2 thế giới là lợi thế chiến lược để Việt Nam bứt phá trong ngành bán dẫn. Đất hiếm đang trở thành yếu tố cạnh tranh toàn cầu khi Mỹ – Trung đối đầu công nghệ và nhiều nước coi tài nguyên này là “vũ khí chiến lược”.
Tại kỳ họp, các đại biểu đề nghị Chính phủ đầu tư mạnh cho nghiên cứu công nghệ tuyển - chế biến, xây dựng chiến lược công nghệ đất hiếm giai đoạn 2025–2030, thành lập các trung tâm R&D và thu hút chuyên gia quốc tế. Đây là nền tảng để Việt Nam tạo chuỗi giá trị đất hiếm - bán dẫn thay vì chỉ dừng ở khai thác thô.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cảnh báo Việt Nam chưa có công nghệ khai thác thân thiện môi trường, chế biến sâu còn hạn chế, trong khi đất hiếm chứa nhiều nguyên tố độc hại và phóng xạ. Việc thiếu công nghệ lõi, khó tiếp cận chuyển giao từ nước ngoài khiến doanh nghiệp trong nước gặp rào cản lớn.
Đồng thời, bài toán nhân lực cũng được đặt ra: muốn phát triển bán dẫn phải đào tạo 50.000–100.000 kỹ sư chất lượng cao, tái cơ cấu hệ thống đại học, viện nghiên cứu, xây dựng phòng thí nghiệm hiện đại và gắn đào tạo với nhu cầu của các khu công nghệ cao.
Các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần mô hình riêng: chọn một số lĩnh vực bán dẫn trọng tâm, áp dụng chuẩn đào tạo tiên tiến (như mô hình Mỹ), đầu tư đồng bộ vào nghiên cứu cơ bản, ứng dụng, sản xuất và tích hợp hệ thống nghiên cứu với hệ thống đào tạo để hình thành hệ sinh thái bán dẫn hoàn chỉnh.
.png)



