Lâm Đồng: Gần nửa công trình nước sạch nông thôn ngừng hoạt động
Tỉnh Lâm Đồng hiện có gần 98% hộ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh. Tuy nhiên, gần một nửa trong số hơn 600 công trình cấp nước tập trung đã ngừng hoạt động, trở thành nút thắt lớn cản trở mục tiêu cung cấp nước sạch bền vững cho người dân vùng nông thôn.
Gánh nặng công trình ở cấp xã
Những năm qua, Lâm Đồng đã đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận trong việc cung cấp nước sạch nông thôn. Trước khi sáp nhập, khu vực Bình Thuận (cũ) là điểm sáng với gần 85% xã đạt chuẩn nông thôn mới, hơn 15% xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; chỉ tiêu nước sạch nông thôn đạt hơn 89% và nước sạch nông thôn mới nâng cao đạt trên 76%.
Sau khi sáp nhập, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Lâm Đồng tiếp tục hoàn thiện và trình các dự án nước sạch bức thiết. Đến nay, đã có 9/17 dự án được phê duyệt chủ trương đầu tư, trong đó 2 dự án đang khởi công.

Theo ông Trần Văn Liêm, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh, đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đã đạt trên 97%, song tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch đạt chuẩn mới đạt hơn 57%.
Điều đáng lo ngại là hiệu quả đầu tư và tính bền vững của các công trình còn thấp. Toàn tỉnh hiện có 624 công trình cấp nước tập trung, nhưng chỉ 169 công trình (27%) hoạt động bền vững, chủ yếu ở khu vực Bình Thuận (cũ). Trong khi đó, 298 công trình (47%) đã ngừng hoạt động, tập trung tại Đắk Nông và Lâm Đồng (trước sắp xếp).
Nguyên nhân chính, theo ông Liêm, nằm ở cơ chế quản lý sau đầu tư. Phần lớn các công trình ngừng hoạt động do được bàn giao cho UBND xã, sau đó chuyển cho tổ hợp tác hoặc nhóm hộ dân tự quản. Mô hình này mang tính cộng đồng nhưng thiếu chuyên môn, không có kế toán, không duy tu bảo dưỡng định kỳ. Hệ quả là nhiều công trình nhanh chóng xuống cấp, hư hỏng, dẫn đến ngừng hoạt động chỉ sau vài năm bàn giao.
Điểm nghẽn sau sáp nhập và địa bàn rộng lớn
Bên cạnh yếu tố quản lý, quá trình sáp nhập tỉnh cũng tạo ra những điểm nghẽn khách quan. Việc hợp nhất ba đơn vị hành chính (Bình Thuận, Đắk Nông và Lâm Đồng cũ) khiến công tác chuẩn bị, giải trình và phê duyệt các dự án đầu tư mới kéo dài hơn so với kế hoạch.
Địa bàn rộng, địa hình phức tạp cũng là trở ngại lớn. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung tại khu vực Đắk Nông cũ chỉ đạt 14,62%, còn Lâm Đồng cũ đạt 34,27%, khiến việc hoàn thành chỉ tiêu nước sạch trong xây dựng nông thôn mới gặp nhiều khó khăn.
Việc tổ chức lại Trung tâm Nước sạch sau sáp nhập, với trách nhiệm quản lý thêm 9 công trình tại khu vực Đắk Nông (cũ), cũng làm tăng áp lực. Nhiều công trình tại đây chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn khai thác tài nguyên nước, an toàn lao động, an toàn vệ sinh công nghiệp, gây khó khăn cho công tác quản lý và vận hành.
Cần cơ chế đột phá trong quản lý và đầu tư
Để khắc phục tình trạng trên, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Lâm Đồng cho biết, đơn vị đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đảm bảo các công trình cấp nước hoạt động ổn định, hiệu quả và lâu dài.
Theo đó, Trung tâm sẽ cân đối kinh phí từ nguồn thu để lập hồ sơ xin cấp phép khai thác nước, kiểm tra chất lượng, đầu tư nâng cấp và sửa chữa các hạng mục xuống cấp. Đồng thời, đào tạo, sắp xếp lại nhân sự vận hành tại khu vực Đắk Nông (trước sáp nhập) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.
Trung tâm cũng cam kết duy trì chất lượng nước sạch đạt quy chuẩn của Bộ Y tế và tiêu chuẩn địa phương; đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát, giám sát định kỳ.
Về cơ chế, Trung tâm kiến nghị tỉnh cần ban hành chính sách phối hợp cụ thể giữa các đơn vị quản lý nhà nước và chủ đầu tư dự án để bảo đảm việc đầu tư, vận hành công trình nước sạch nông thôn được kịp thời, hiệu quả và bền vững hơn trong giai đoạn mới.