Sáng ngày 19/9 theo giờ địa phương (tối cùng ngày theo giờ Hà Nội), tiếp tục chương trình hoạt động song phương tại Hoa Kỳ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tới thăm và phát biểu chính sách tại Đại học Georgetown, thủ đô Washington, D.C.
Trước đó, trong đêm ngày 18/9, sau các hoạt động cuối cùng tại thung lũng Silicon, Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu đã rời San Francisco, lên đường tới thủ đô Washington, D.C. Chuyến thăm và làm việc tại Đại học Georgetown là hoạt động đầu tiên của Thủ tướng ngay sau khi đặt chân tới Washington, D.C vào đầu giờ sáng 19/9.
Sự kiện có sự tham gia của các thành viên Đoàn công tác Việt Nam, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Dũng, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc Knapper, các Giáo sư, sinh viên Đại học Georgetown, quan chức chính quyền, học giả, các nhà ngoại giao tại Hoa Kỳ.
Phát biểu chào mừng, Giáo sư Joel Hellman – Hiệu trưởng Trường Ngoại giao Edmund A. Walsh, Đại học Georgetown cho rằng việc Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tới tham dự và có bài phát biểu tại đây là một sự kiện đặc biệt có ý nghĩa của Đại học Georgetown, nhất là trong bối cảnh Việt Nam và Hoa Kỳ vừa qua đã xác lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện.
Phát biểu tại thư viện của Đại học Georgetown - một trong những trường đại học lâu đời và danh giá bậc nhất nước Mỹ, Thủ tướng nhắc lại, cách đây hơn một tuần, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đã có chuyến thăm lịch sử tới Việt Nam, cùng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng công bố nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững.
Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ sau 48 năm kể từ 1975 đã có bước tiến dài, từ chiến tranh, hận thù đến bình thường hoá quan hệ năm 1995, ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (năm 2001); thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện (năm 2013); Hoa Kỳ tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam (năm 2015) đến nâng cấp quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện (2023).
Điều này cho thấy tinh thần gác lại quá khứ, hướng đến tương lai, vì hoà bình, hợp tác và phát triển bền vững; hiện thực hoá tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người anh hùng dân tộc vĩ đại của nhân dân Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới, trong Thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ Truman ngày 16/02/1946 đã bày tỏ mong muốn thiết lập quan hệ đầy đủ với Hoa Kỳ.
Trong bài phát biểu, Thủ tướng tập trung trình bày 3 nội dung chính: (1) Thế giới hiện nay thế nào? (2) Mục tiêu, một số chính sách lớn của Việt Nam; (3) Chúng ta phải làm gì để hiện thực hoá quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ trong thời gian tới?
Thế giới hiện nay thế nào?
Làm rõ vấn đề thứ nhất, "thế giới hiện nay thế nào", Thủ tướng cho rằng, cách mạng công nghiệp 4.0 với trí tuệ nhân tạo và xu hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đổi mới sáng tạo tiếp tục mở ra những cơ hội phát triển mới. Trí tuệ sáng tạo của con người là không giới hạn.
Song, nhân loại cũng đang đứng trước thời điểm khó khăn nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh (Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt năm 1918; Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt năm 1945). Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, cạnh tranh địa chính trị, địa kinh tế, gia tăng vũ trang, sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang nổi lên.
"Có thể nói thế giới tổng thể là hoà bình - cục bộ có chiến tranh; tổng thể là hoà hoãn - cục bộ có xung đột; tổng thể là ổn định - cục bộ có căng thẳng. Ranh giới giữa chiến tranh và hoà bình, giữa phát triển và tụt hậu, giữa độc lập và phụ thuộc trở nên mong manh. Các thách thức già hoá dân số, an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, lương thực, nguồn nước, năng lượng và tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm mạng diễn biến ngày càng gay gắt, đa chiều, gây ra hậu quả nặng nề", Thủ tướng nói.
Cùng với đó, kinh tế toàn cầu đang chứng kiến nhiều cơn gió ngược. Ngân hàng Thế giới đã phát đi cảnh báo về một "thập kỷ mất mát". Nhiều mục tiêu Phát triển bền vững bị đẩy lùi, khó có thể hoàn thành vào năm 2030.
Với hơn 60% dân số thế giới và chiếm 60% GDP toàn cầu, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương được kỳ vọng là khu vực phát triển năng động hàng đầu, là tâm điểm hội tụ hợp tác và liên kết, với những khu vực thương mại tự do lớn hàng đầu thế giới như RCEP, CPTPP, nơi lợi ích được điều hoà, kết nối được khai thông, sức mạnh được nhân lên.
Tuy nhiên, đây cũng là khu vực có cạnh tranh chiến lược, tiềm ẩn tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, các vấn đề thu hút quan tâm của dư luận quốc tế và nhiều thách thức an ninh phi truyền thống, không loại trừ dẫn đến căng thẳng, mất kiểm soát.
"Nói cách khác, thế giới đang biến động phức tạp, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, khó định đoán, đặt ra bài toán chung cho sự an nguy và phát triển của nhân loại, cho vai trò của quản trị toàn cầu. Trong bối cảnh đó, Việt Nam lựa chọn con đường chủ động thích ứng, tranh thủ cơ hội, hoá giải thách thức, lấy hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển làm mục tiêu, lấy Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế làm nền tảng, lấy đối thoại và hợp tác làm công cụ", Thủ tướng nói.
Mục tiêu, một số chính sách lớn của Việt Nam
Về nội dung lớn thứ hai, Thủ tướng cho biết Việt Nam lấy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh vừa là mục tiêu tổng quát, vừa là động lực để phấn đấu. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu chiến lược đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Thủ tướng chia sẻ một số bài học kinh nghiệm của Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ nhất, kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, nhân dân làm nên lịch sử; sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, do dân, vì dân.
Thứ ba, đoàn kết, đại đoàn kết; đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công".
Thứ tư, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài.
Thứ năm, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định sự thắng lợi của Cách mạng Việt Nam.
Về một số định hướng lớn của Việt Nam, Thủ tướng nêu rõ:
Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Thứ hai, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả; lấy nguồn lực bên trong là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá, thường xuyên.
Thứ ba, xây dựng nền dân chủ XHCN (phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc).
Thứ tư, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo tinh thần văn hoá soi đường cho quốc dân đi – Văn hoá còn thì dân tộc còn.
Thứ năm, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Thứ sáu, xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và có hiệu quả, là bạn, đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Thứ bảy, đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân - xây dựng thế trận an ninh nhân dân - xây dựng thế trận lòng dân vững chắc; kiên trì chính sách quốc phòng "bốn không": (1) Không tham gia liên minh quân sự; (2) Không liên kết với nước này để chống nước kia; (3) Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; (4) Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Thứ tám, xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh hơn nữa công cuộc phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Đảng phải xây dựng đường lối đúng; xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ chín, xuyên suốt là yếu tố con người. Coi con người làm trung tâm, chủ thể, động lực, nguồn lực quan trọng nhất và là mục tiêu của sự phát triển. Không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội, không hy sinh bảo vệ môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần
Cùng với đó, đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại.
Thủ tướng khẳng định, kết quả thực tiễn đạt được cho thấy, các chính sách đó là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam đến nay đã thuộc top 40 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới và top 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại, thu hút FDI
Việt Nam ngày nay là một thị trường đầy tiềm năng với 100 triệu dân, một điểm đến hấp dẫn, an toàn, thân thiện của bạn bè quốc tế. GDP năm 2022 đạt gần 410 tỷ USD; tổng kim ngạch thương mại đạt trên 723 tỷ USD. Giá trị thương hiệu quốc gia đứng thứ 32 trên top 100 giá trị thương hiệu quốc gia cao nhất thế giới trong giai đoạn 2020 - 2022.
Chính trị, xã hội ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia; hơn 30 đối tác có quan hệ từ Đối tác toàn diện trở lên; đã ký kết 16 hiệp định Thương mại Tự do (FTA). Việt Nam đã hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ; là hình mẫu quan hệ với Liên Hợp Quốc và xoá đói giảm nghèo
Hiện thực hoá quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ
Vấn đề lớn thứ ba được Thủ tướng đề cập là phải làm gì để hiện thực hoá quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ trong thời gian tới?
Về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, Thủ tướng cho rằng mối lương duyên giữa hai dân tộc đã bắt đầu từ lâu. Năm 1787, Thomas Jefferson, người sau này trở thành Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, đã từng muốn nhập một số giống lúa chịu hạn về trồng. Đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng Hoa Kỳ Jeremiah Briggs đã đến Việt Nam trên con tàu Fame để tìm cách kết nối thông thương giữa hai nước.
Đến đầu thế kỷ 20, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành - sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của nhân dân Việt Nam, vị Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới, trên hành trình tìm đường cứu nước đã tới thành phố Boston, Hoa Kỳ.
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ là một trong những ý tưởng cảm hứng để Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà năm 1945: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Về hợp tác chính trị, thực tiễn sinh động của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã hỗ trợ thiết thực và góp phần hiện thực hóa các mục tiêu, định hướng phát triển và hội nhập quốc tế lớn của Việt Nam. Trong 10 năm qua, từ khi thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (tháng 7/2013), hai bên đã tăng cường tiếp xúc, trao đổi đoàn các cấp, đặc biệt là cấp cao.
Về hợp tác kinh tế, Việt Nam hiện là một trong những đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam. Kim ngạch thương mại song phương tăng bình quân khoảng 16%/năm; tăng gần 20 lần từ 6,8 tỷ USD năm 2005 lên gần 125 tỷ USD năm 2022. Các doanh nghiệp, nhà đầu tư Hoa Kỳ có hơn 1,2 nghìn dự án tại Việt Nam với tổng số vốn 11,4 tỷ USD.
Hợp tác giáo dục đào tạo, văn hoá, y tế, du lịch, khắc phục hậu quả chiến tranh, giao lưu nhân dân tiếp tục tiến triển thực chất. Hai bên đã hoàn thành Dự án tẩy độc dioxin tại sân bay Đà Nẵng và đang triển khai giai đoạn 1 của Dự án tẩy độc dioxin tại sân bay Biên Hòa. Hợp tác tìm kiếm, quy tập hài cốt quân nhân Hoa Kỳ đạt nhiều kết quả, giúp nhận dạng hơn 700 quân nhân thiệt mạng trong chiến tranh. Hiện có gần 30 nghìn học sinh, sinh viên Việt Nam đang học tập tại Hoa Kỳ. Hai bên hợp tác ngày càng chặt chẽ trong xử lý các thách thức an ninh phi truyền thống, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc.
Hiện nay có khoảng 2,4 triệu Việt kiều tại Hoa Kỳ/tổng số 6 triệu người Việt Nam ở nước ngoài. Có 30 nghìn sinh viên Việt Nam đang học tập, nghiên cứu tại Hoa Kỳ.
Theo Thủ tướng, quan hệ hai nước còn tồn tại một số khác biệt nhất định. Những khác biệt này là thực tế khách quan trong một thế giới đa dạng mà trong đó các dân tộc có quyền tìm kiếm, lựa chọn con đường phát triển riêng. Nhưng lịch sử đã chứng minh, những khác biệt này không cản trở đà phát triển tự nhiên của quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ.
Để hiện thực hoá quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ, Thủ tướng đề xuất một số quan điểm.
Theo đó, nguồn lực bắt nguồn từ tư duy, động lực bắt nguồn từ đổi mới, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân. Khẳng định sự tin cậy và tôn trọng lẫn nhau giữa hai nước, hiện thực hóa tầm nhìn và các mục tiêu cho quan hệ hai nước trên tinh thần "gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai". Khuôn khổ mới cũng đòi hỏi chúng ta phải có tư duy mới, cách thức mới để tạo ra những đột phá mới, và đạt được những thành quả mới.
Trên tinh thần đó, Thủ tướng cho rằng hai bên cần tập trung cụ thể hoá việc nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững thành những chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động, dự án, hoạt động hợp tác kinh doanh cụ thể, trong đó chú trọng những nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, tiếp tục quan tâm và ưu tiên dành nguồn lực để hiện thực hóa các cam kết trong Tuyên bố chung về việc nâng cấp quan hệ hai nước. Việt Nam mong muốn Hoa Kỳ hỗ trợ để góp phần hiện thực hoá định hướng xây dựng "một Việt Nam mạnh, độc lập, tự cường và thịnh vượng" như hai bên mong muốn.
Thứ hai, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, xây dựng và củng cố tin cậy chính trị giữa lãnh đạo, chính giới và nhân dân hai nước. Tăng cường trao đổi, tiếp xúc cấp cao thường xuyên hơn, giữa các kênh nghị viện, giữa các chính đảng, mở rộng trao đổi, đối thoại trên các lĩnh vực cùng quan tâm; thúc đẩy hơn nữa hợp tác địa phương, giao lưu nhân dân.
Thứ ba, tiếp tục coi hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư là động lực chủ yếu và là "động cơ vĩnh cửu" thúc đẩy quan hệ song phương. Hoa Kỳ quan tâm hơn nữa, hỗ trợ thiết thực các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư phát triển các dự án lớn, nhất là công nghiệp chế tạo và mở rộng chuỗi cung ứng tại Việt Nam.
Về phần mình, Việt Nam sẽ nỗ lực triển khai 3 đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng, nhân lực, sẵn sàng trao đổi, phối hợp để tạo những điều kiện thuận lợi cho hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Thứ tư, sớm hoàn thiện các khuôn khổ hợp tác mới, làm cơ sở thúc đẩy, làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác. Xác định khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ là lĩnh vực mang tính đột phá, không giới hạn. Tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên, trọng tâm: Nền tảng công nghệ số, hệ sinh thái bán dẫn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi năng lượng, công nghệ sinh học, y tế, dược phẩm; đào tạo sinh viên và nguồn nhân lực chất lượng cao…
Thứ năm, hai bên tiếp tục hợp tác hiệu quả về quốc phòng, an ninh, nhất là trên các lĩnh vực thực thi pháp luật, chống khủng bố, đào tạo quân y, cứu trợ cứu nạn, nâng cao năng lực hàng hải và hàng không, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc; tiếp tục thúc đẩy khắc phục hậu quả chiến tranh, nhất là khắc phục hậu quả chất độc da cam/dioxin, rà phá bom mìn và tìm kiếm người mất tích.
Thứ sáu, Việt Nam sẵn sàng đóng vai trò cầu nối trong thúc đẩy hợp tác nhiều mặt giữa ASEAN, giữa các nước tiểu vùng Mekong với Hoa Kỳ và các đối tác khác; phối hợp chặt chẽ trong ASEAN, APEC, Liên Hợp Quốc để xử lý các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, nguồn nước, y tế.
Thứ bảy, tăng cường thông tin, truyền thông, thực hiện chính sách hoà hợp dân tộc. Đồng thời, hai bên cần tăng cường hợp tác trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phù hợp với hiến pháp và các cam kết quốc tế của mỗi nước, thúc đẩy tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giảm thiểu khác biệt.
Kết thúc bài phát biểu, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong thời gian tới cần hướng tới mục tiêu phát triển ngày càng sâu rộng, thực chất và hiệu quả, tương xứng với khuôn khổ mới, đáp ứng thiết thực lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới; thúc đẩy quan hệ hai nước không làm tổn hại lợi ích của nước khác.
Thủ tướng mong muốn hai bên đã quyết tâm rồi cần quyết tâm cao hơn nữa, đã nỗ lực rồi thì cần nỗ lực hơn nữa, phấn đấu đạt kết quả năm sau cao hơn năm trước, 5 năm sau cao hơn 5 năm trước đó…
"Tôi xin được kết thúc bài phát biểu hôm nay với câu nói của Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln: "Luôn nhớ rằng quyết tâm thành công của chính bạn quan trọng hơn bất cứ điều gì khác". Tôi xin bổ sung thêm, thành công của các bạn cũng là thành công của chúng tôi và ngược lại", Thủ tướng phát biểu.
Ấn tượng sâu sắc về những thông điệp của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, nhiều đại biểu, học giả của đại học Georgetown đã có chia sẻ, bình luận và đặt câu hỏi cho Thủ tướng Chính phủ.
Thủ tướng đã dành thời gian trao đổi với các đại biểu, trong đó làm rõ thêm về đường lối, chính sách phát triển của Đảng, Nhà nước, chính sách đối ngoại Việt Nam và quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quốc tế, khu vực được quan tâm
Trả lời câu hỏi về việc Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ, Thủ tướng khẳng định lại đường lối đối ngoại của Việt Nam và nhấn mạnh, việc nâng cấp quan hệ hai nước phụ thuộc lợi ích, mong muốn của nhân dân hai nước.