(Moitruong.net.vn) – Mùa hè năm 2018, tại Bắc bán cầu trên khắp các khu vực châu Âu, châu Á, Bắc Mĩ và Bắc Phi đã chứng kiến những đợt nóng khủng khiếp. Số người thiệt mạng tăng lên vì nhiệt độ quá cao ở Nhật Bản, Algeria và Canada đến cháy rừng ở Thụy Điển, Hy Lạp và California chính là những bằng chứng của tình trạng biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Các quốc gia trên thế giới đang tích cực tiến hành các biện pháp để đối phó với tình trạng này.
>>>Áp thấp nhiệt đới giật cấp 8 đang hướng vào Bắc biển Đông
>>> Đại học Harvard và Google: Phát triển Trí tuệ nhân tạo dự báo được các trận dư chấn động đất
Hạn hán nghiêm trọng ở Mỹ (Ảnh: The Atlantic)
Giai đoạn này, con người đang phải đối mặt với những thử thách về môi trường lớn nhất từ trước đến nay. Trong 150 năm qua, con người với những hoạt động của mình đã làm thay đổi sự cân bằng của hành tinh. Con người đã đốt cháy một lượng lớn nhiên liệu hóa thạch như than, dầu, khí đốt; đồng thời nuôi một lượng lớn các loại động vật thải ra lượng lớn khí mê-tan; và chặt phá những cánh rừng rộng lớn, làm giảm sự hấp thu khí carbon dioxide từ không khí một cách tự nhiên. Bên cạnh đó là rất nhiều hoạt động khác của con người dẫn đến tình trạng biến đổi khí hậu.
Bầu khí quyển của trái đất đang ấm lên nhanh chóng. Một số kiểu thời tiết, khí hậu và môi trường tự nhiên đang thay đổi nhanh hơn khả năng thích nghi của động vật hoang dã và con người.
Nhiều thách thức lớn trên thế giới hiện nay từ nghèo đói đến sự tuyệt chủng của động vật hoang dã ngày càng trở nên khó khăn để giải quyết hơn bởi các tác động của biến đổi khí hậu. Mọi thứ được dự đoán sẽ còn tồi tệ hơn nữa nếu như con người không có những hành động mạnh mẽ.
Biến đổi khí hậu có ảnh hưởng đến hệ thống nước trên thế giới khi tạo ra nhiều trận lũ lụt và hạn hán hơn. Không khí ấm lên có thể chứa hàm lượng nước cao hơn. Đây chính là nguyên nhân khiến các dạng mưa trở nên khắc nghiệt hơn.
Sông và hồ là nguồn sống cho con người và động vật, cung cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp. Môi trường nước ngọt này đang chịu những áp lực quá mức từ hệ thống thoát nước thải, việc nạo vét, ô nhiễm nước… Biến đổi khí hậu chỉ làm trầm trọng thêm các vấn đề này khiến hạn hán, lũ lụt trở nên phổ biến hơn, gây ra sự dịch chuyển và xung đột.
Biến đổi khí hậu còn gây ảnh hưởng lớn đến các đại dương. Nhiệt độ nước tăng và nồng độ carbon dioxide cao hơn bình thường làm cho các đại dương có tính axit cao. Các rạn san hô, tảo có nguy cơ bị thiếu oxy, dẫn đến sự tẩy trắng các rạn san hô.
Tình trạng nóng lên toàn cầu có thể là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài động vật trong thế kỷ này. Theo Hội đồng liên chính phủ về biến đổi khí hậu cho biết, mức tăng trung bình 1,5 độ C có thể dẫn đến 20-30% loài có nguy cơ tuyệt chủng. Nếu hành tinh nóng lên 3 độ C, hầu hết hệ sinh thái sẽ bị hủy hoại nghiêm trọng.
Trước những hậu quả ngày càng nặng nề của biến đổi khí hậu, các quốc gia trên thế giới đã và đang tìm kiếm những biện pháp khắc phục. Nhật Bản một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu được nhận định nên đóng vai trò chủ động hơn trong các cuộc thảo luận quốc tế bằng cách đưa ra các kế hoạch mang tính tham vọng để cắt giảm lượng khí thải. Mục tiêu của Nhật Bản càng gặp nhiều áp lực hơn sau thời điểm khí thải carbon dioxide tăng cao từ sự cố nhà máy điện Fukushima I. Trận động đất, sóng thần và sự cố hạt nhân năm 2011 đã làm thay đổi đáng kể hiện trạng năng lượng của Nhật Bản. Mặc dù phải đối mặt với những thách thức to lớn, quốc gia này đã đạt được hiệu quả năng lượng cao nhất thế giới và tiếp tục theo đuổi các biện pháp cắt giảm khí thải.
Nhật Bản hiện đã đặt ra mục tiêu quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính sau năm 2020, cụ thể là giảm 26% lượng phát thải vào năm 2030. Tín hiệu này cho thấy tham vọng dẫn đầu về giảm phát thải trên toàn cầu của Nhật Bản.
Chính phủ Nhật Bản cũng đã tổng hợp các biện pháp cụ thể cùng các công nghệ tiên tiến. Mức tiêu thụ năng lượng tính trên một đơn vị GDP của Nhật Bản hiện thấp hơn khoảng 30% so với mức trung bình của các quốc gia G7 khác. Quốc gia này đặt ra mục tiêu cải thiện khoảng 40% tỉ lệ phát thải khí nhà kính trên GDP cho tới năm 2030. Nhật Bản cũng dự định đẩy nhanh việc đưa năng lượng tái tạo vào sử dụng, tăng 7 lần lượng điện năng từ năng lượng mặt trời và tăng 4 lần điện năng được sản xuất từ gió và địa nhiệt.
Bên cạnh đó, đổi mới đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết biến đổi khí hậu, đặc biệt là phát triển công nghệ carbon thấp. Nhật Bản cũng tiếp tục thúc đẩy cơ chế Tín dụng chung (JCM) nhằm tạo điều kiện sử dụng các công nghệ carbon thấp tiên tiến ở các nước đang phát triển. Điển hình như các kỹ thuật được phát triển và áp dụng tại các nhà máy sắt, thép của Nhật Bản đã góp phần làm giảm 50 triệu tấn CO2 mỗi năm trên phạm vi toàn thế giới.
Quốc gia bên kia Thái Bình Dương, Mỹ cũng đã và đang chịu đựng những hậu quả nặng nề của biến đổi khí hậu. Theo báo cáo của các nhà khoa học, nếu nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng cao, kéo theo mực nước biển dâng thì sẽ có hơn 300.000 ngôi nhà ở các khu vực biển của nước Mỹ sẽ bị nhấn chìm trong vòng 30 năm tới. Nước Mỹ sẽ phải đối mặt với thủy triều dâng cao, lũ lụt thường xuyên và những trận bão cực mạnh. Dự báo cho biết sẽ có 48 bang trên toàn nước Mỹ bị tác động do biến đổi khí hậu, nghiêm trọng nhất là ở Florida, New Jersey và New York.
Để ứng phó với biến đổi khí hậu, gần một nửa các công ty lớn nhất nước Mỹ đều có ít nhất một mục tiêu về khí hậu hay năng lượng sạch. Những công ty đứng đầu của các ngành công nghiệp ngày nay đều hiểu rằng, đầu tư vào năng lượng sạch sẽ tạo ra việc làm và thúc đẩy khả năng cạnh tranh của Mỹ. Một hành tinh khỏe cũng sẽ giúp thúc đẩy kinh doanh tốt. Đó chính là lý do vì sao các công ty thuộc mọi quy mô, ngành nghề, khu vực địa lý của Mỹ đều tích hợp các mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính vào các kế hoạch kinh doanh. Các công ty này đóng vai trò không thể thiếu trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu trên toàn cầu.
Các thành phố, các bang trên nước Mỹ đều chuẩn bị cho cộng đồng dân cư của mình những nhận thức về biến đổi khí hậu và đồng thời thực hiện các biện pháp để ngăn chặn sự thay đổi càng thêm nghiêm trọng, thảm khốc hơn trong tương lai. Các bang, các thành phố đang thực hiện các bước đi mang tính thực tế để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu từ việc tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo đến đầu tư vào cơ sở hạ tầng bền vững. Thị trưởng các bang ở Mỹ đã cam kết cùng hành động, đảm bảo việc hoạch định chính sách hỗ trợ cho các chiến lược hành động vì khí hậu đầy tham vọng ở cấp liên bang và quốc tế.
Nền kinh tế năng lượng sạch đang bùng nổ ở Mỹ đã sử dụng 3,3 triệu lao động, nhiều hơn tất cả số công việc trong khai thác nhiên liệu hóa thạch trên quốc gia này hợp lại. Đầu tư vào năng lượng sạch và các hành động khác để giải quyết biến đổi khí hậu ở cấp bang đã được chứng minh là một công cụ tạo việc làm. Những công việc mới này được phân bổ trên toàn quốc, trong đó các bang California, Texas, New York, Florida và Michigan có số lượng công việc liên quan đến năng lượng sạch lớn nhất từ trước đến nay.
Rạn san hô bị tẩy trắng tại Australia (Ảnh: Reef Nation)
Các nhà khoa học ở Australia đã khuyến cáo các thành phố lớn của nước này bao gồm Melbourne, Sydney phải chuẩn bị ứng phó với những ngày nhiệt độ cao trên 50 độ C vào cuối thế kỷ này, kể cả khi thế giới thực hiện được cam kết giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu không quá 2 độ C theo Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu. Tính đến nay, nhiệt độ cao nhất được ghi nhận lại Melbourne là 46,4 độ C, trong khi ở Sydney là 45,8 độ C.
Trước tình trạng nhiệt độ tăng khó kiểm soát này, Australia đang thực hiện cam kết một cách mạnh mẽ và có trách nhiệm. Mục tiêu của Australia là giảm lượng khí thải xuống 26-28% tới năm 2030. Mục tiêu này tương đương với việc giảm 50-52% lượng khí thải bình quân đầu người và giảm 64-65% cường độ phát thải của nền kinh tế cho đến năm 2030.
Australia đã vượt qua mục tiêu đầu tiên của mình theo Nghị định thư Kyoto. Với những kế hoạch Hành động trực tiếp để ứng phó với biến đổi khí hậu giúp Australia đạt cam kết giảm lượng phát thải xuống 5% vào năm 2020.
Với việc giảm lượng khí thải và cường độ phát thải trên đầu người, Australia hy vọng sẽ vượt qua mục tiêu của các quốc gia khác như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada và Liên minh châu Âu. Đây sẽ là một thành tựu đáng kể khi mà lượng phát thải có liên quan mật thiết đến dân số và tăng trưởng kinh tế của Australia. Dân số của quốc gia này dự kiến sẽ tăng 1,5%/năm cho đến năm 2030, cao hơn đáng kể so với mức tăng dân số trung bình của các nước OECD là 0,4%. Hơn nữa, nền kinh tế của Australia đã bước vào năm thứ 25 liên tiếp tăng trưởng. Đây là giai đoạn tăng trưởng dài thứ hai của bất cứ nền kinh tế tiên tiến nào trên thế giới.
Mục tiêu 2030 của Australia có thể đạt được thông qua Hành động trực tiếp nhằm giảm phát thải khí nhà kính, tăng năng suất và cải thiện sức môi trường và đất đai. Điểm cốt lõi của chương trình này là Australia đã xây dựng được Quỹ giảm phát thải trị giá 2,55 tỷ USD và Cơ chế tự vệ. Điều này được bổ sung bởi các mục tiêu về năng lượng tái tạo, cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng, loại bỏ các khí nhà kính tổng hợp, hỗ trợ trực tiếp cho đầu tư vào công nghệ phát thải thấp.
Chính phủ Australia đã xem xét các chính sách giảm phát thải một cách chi tiết cho giai đoạn 2017-2018 với sự tham vấn chặt chẽ của các doanh nghiệp và cộng đồng.
Lũ lụt luôn đe dọa các tỉnh miền Trung Việt Nam (Ảnh: Ukrinform)
Việt Nam là một trong những nước sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Cụ thể nếu mực nước biển dâng cao 1m, sẽ có khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập. Trong đó, TP. Hồ Chí Minh sẽ bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10-12% dân số nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP…
Biến đổi khí hậu đã ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam. Vì vậy ngoài việc thực hiện từng bước 4 mục tiêu lớn của chiến lược, trước mắt Việt Nam phải tập trung chủ động ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu. Đây là 1 trong 10 nhiệm vụ chiến lược của Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu.
Nâng thời hạn dự báo bão, không khí lạnh lên đến 3 ngày với độ chính xác ngang mức tiên tiến của khu vực châu Á để có thể cảnh báo sớm, giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản. Đồng thời rà soát, xây dựng các quy hoạch phát triển, quy chuẩn xây dựng trong vùng thường xuyên bị thiên tai phù hợp với điều kiện gia tăng thiên tai do biến đổi khí hậu; củng cố, xây dựng các công trình phòng, chống thiên tai trọng điểm cấp bách; nghiên cứu và triển khai các giải pháp cụ thể để phòng, chống hiệu quả thiên tai, lũ quét và sạt lở ở vùng núi.
Bên cạnh đó, một việc hết sức cấp thiết là nâng cao chất lượng rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc bảo đảm khai thác hiệu quả các loại rừng để duy trì và nâng cao khả năng phòng, chống thiên tai, chống sa mạc hóa, xâm thực, suy thoái đất; tăng cường bảo vệ, quản lý và phát triển rừng ngập mặn, các hệ sinh thái đất ngập nước; phấn đấu đến 2020 nâng độ che phủ của rừng lên 45%.
Hồng Nhung/Mặt Trận