Động lực tăng trưởng đến năm 2025
Trình bày tham luận “Động lực tăng trưởng và phát triển bền vững trong bối cảnh mới (đến năm 2025 và hướng đến năm 2030)”, TS.Cấn Văn Lực thay mặt nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cho biết, kể từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Khó khăn, thách thức mới xuất hiện nhiều hơn là cơ hội, nặng nề hơn so với dự báo, cũng như so với các nhiệm kỳ gần đây. Đó là chiến tranh (xung đột Nga-Ukraine), dịch bệnh (nhất là đại dịch COVID-19), thiên tai (khí hậu thất thường, khắc nghiệt và nhiều thiên tai hơn),.. đã khiến kinh tế - xã hội (KTXH) thế giới và Việt Nam bất thường hơn, bấp bênh và rủi ro hơn - điều mà giới kinh doanh vẫn gọi là thế giới VUCA (biến động, không chắc chắn, phức tạp và mơ hồ).
Kinh tế thế giới sau khi phục hồi mạnh mẽ năm 2021 (tăng 6%), đang giảm đà, xuống mức tăng 3% năm 2022 và dự báo khoảng 2,1-2,4% năm nay, trước khi tăng trở lại mức 2,4-2,7% năm 2024. Cùng với đó là những biến đổi sâu sắc về xã hội - môi trường chứng kiến chênh lệch giàu nghèo, an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh chuỗi cung ứng, an ninh y tế, vấn đề thị trường lao động, già hóa dân số, tài nguyên nước, ô nhiễm môi trường… đều trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải thực hiện đa mục tiêu: vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển KT-XH, đảm bảo an sinh xã hội, an ninh quốc phòng và tự chủ, tự cường gắn với hội nhập quốc tế…v.v. Theo đó, cả nước gồng mình vừa phải tập trung giải quyết những vấn đề phức tạp mới phát sinh, vừa phải xử lý những yếu kém, tồn đọng từ lâu nay bộc lộ, vừa phải phục hồi, phát triển nhanh và bền vững.
Với sự đồng lòng, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành của Quốc Hội, sự quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nhiều chính sách, giải pháp quyết liệt, quy mô, kể cả chưa có tiền lệ, được các cấp có thẩm quyền ban hành đi kèm việc thành lập, kiện toàn tổ chức - bộ máy chỉ đạo, thực hiện. Do đó, Việt Nam cơ bản đã vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, được quốc tế và trong nước ghi nhận.
Để có thể đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng XIII và của Quốc hội đã đề ra, việc khôi phục các động lực tăng trưởng hiện hữu và tìm kiếm các động lực mới là vấn đề vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cũng như đến năm 2025 và năm 2030.
Để cập về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam từ năm 2020 đến nay, TS. Cấn Văn Lực cho biết, nền kinh tế nước ta cũng phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức và hạn chế, đó là: (i) rủi ro và thách thức từ bối cảnh quốc tế vẫn hiện hữu và có thể kéo dài; (ii) hoạt động thương mại quốc tế còn khó khăn, còn giảm dù mức giảm đã chậm lại; (iii) hoạt động của doanh nghiệp còn nhiều khó khăn nhưng đã khá dần lên; (iv) tín dụng tăng trưởng thấp, nợ xấu tăng cao do khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế còn yếu (dù đây chỉ là hiện tượng ngắn hạn khi bối cảnh kinh tế thế giới còn phục hồi chậm và mong manh); (v) Thu ngân sách nhà nước sau 2 năm (2021-2022) tăng khá bắt đầu suy giảm từ đầu năm 2023 chủ yếu là do ngoại thương giảm, doanh nghiệp còn khó khăn và các chính sách giãn hoãn, giảm thuế, phí được áp dụng nhiều hơn trong 6 tháng cuối năm 2023.
Trong 8 tháng đầu năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản luôn là bệ đỡ của nền kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. khu vực dịch vụ duy trì đà tăng (dù chậm hơn) và là động lực tăng trưởng quan trọng trong bối cảnh khu vực công nghiệp và xây dựng còn khó khăn. Khu vực công nghiệp và xây dựng gặp nhiều khó khăn từ quý 3/2022 nhưng đã có nhiều tín hiệu phục hồi từ cuối quý 2/2023.
TS. Cấn Văn Lực cho biết, tăng trưởng GDP năm 2023 dự báo theo kịch bản cơ sở là 5,2-5,5%. Với kịch bản tiêu cực là kinh tế thế giới suy thoái nặng hơn, tận dụng được ít các cơ hội từ các động lực tăng trưởng mới, tăng trưởng dự báo là 4,4-4,5%. Tuy nhiên, với kịch bản tích cực là kinh tế thế giới sớm phục hồi, và khai thác được các động lực tăng trưởng mới (như chuyển đổi số , đẩy mạnh liên kết vùng với việc thúc đẩy 2 động lực chính là Hà Nội và TP. HCM ) tăng trưởng có thể đạt 5,5-6%.
Đối với năm 2024 và 2025, theo kịch bản cơ sở, dự báo tình hình kinh tế thế giới từng bước phục hồi, lạm phát được kiếm chế và dần về mức dưới 3% năm 2025, khi đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự báo đạt khoảng 6% năm 2024 và 6,5% năm 2025.
Bên cạnh đó, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh việc nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách tập trung vào nâng cao giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu và đẩy mạnh thương mại dịch vụ.
Trong thời gian tới, cơ hội và thách thức đan xen, vì vậy muốn lấy lại đà phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi Quốc hội và Chính phủ cần thực hiện nhiều chính sách, giải pháp vừa đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng chống chịu, củng cố các động lực tăng trưởng truyền thống vừa tạo không gian đủ rộng để khai thác hiệu quả các mô hình, động lực tăng trưởng mới, cho cả trước mắt và lâu dài. Theo đó, Nhóm Nghiên cứu kiến nghị 2 nhóm giải pháp chính: Nhóm giải pháp củng cố các động lực tăng trưởng hiện hữu; Nhóm giải pháp phát huy, khai thác động lực tăng trưởng mới.
Cần chính sách khuyến khích thay đổi hành vi tiêu dùng trong chuyển đổi xanh
Trình bày tham luận “Chuyển đổi xanh và thách thức tăng trưởng kinh tế trung hạn”, ông Nguyễn Xuân Thành, giảng viên Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright, Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, nền kinh tế Việt Nam hiện đang đứng trước những thách thức rất lớn trong ngắn hạn và trung hạn về mặt tốc độ tăng trưởng. Ngay cả khi không có nhiều thay đổi về cơ cấu kinh tế và phát huy được tác động tích cực của một số động lực tăng trưởng mới thì việc đạt mục tiêu GDP tăng trưởng bình quân 6,5% trong giai đoạn 2021-2025 là vô cùng khó khăn.
Cả ba động lực tăng trưởng hiện nay của nền kinh tế Việt Nam là tiêu dùng nội địa, đầu tư và xuất khẩu đều không theo hướng chuyển đổi xanh và kinh tế tuần hoàn. Nếu tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng với ba động lực truyền thông này mà không có chính sách mang tính khuyến khích để thay đổi hành vi trong tiêu dùng, đầu tư và sản xuất kinh doanh thì chắc chắn các mục tiêu về chuyển đổi xanh sẽ không đạt được.
Ngược lại, việc ban hành và thực thi các chính sách mang tính hành chính, phản ứng thụ động, bắt buộc chuyển đổi mô hình tăng trưởng không có lộ trình sẽ làm suy giảm tăng trưởng kinh tế một cách đáng kể.
Về chuyển đổi động lực tăng trưởng về tiêu dùng và sản xuất trong nước theo hướng kinh tế tuần hoàn, ông Nguyễn Xuân Thành cho rằng, các chính sách thúc đẩy kinh tế tuần hoàn nếu hoạch định theo hướng phân mảnh về thể chế sẽ khó tạo động khuyến khích thực thi tự nguyên và nếu áp đặt một cách cứng nhắc sẽ làm giảm đang kể năng lượng cạnh tranh của các nền kinh tế. Hướng tiếp cận tốt hơn là hoạch định chính sách thúc đẩy kinh tế tuần hoàn theo hệ sinh thái dẫn dắt bởi các cụm ngành. Chính sách cần hướng tới việc phát triển các dịch vụ hỗ trợ trong hệ sinh thái để chính cách doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ thu được lợi ích từ việc tham gia một cách chủ động vào các hoạt động kinh tế tuần hoàn.
Trên phương diện hoạch định chính sách ở cấp độ Quốc hội, các cụm ngành cần được xác định thúc đẩy kinh tế tuần hoàn bao gồm: Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng nhanh và bao bì (với trọng tâm chính sách là tái chế); Dịch vụ vận tải và logistics (với trọng tâm chính sách là công nghệ thông minh); Xử lý chất thải (với trọng tâm chính sách là chuyển đổi từ xử lý rác thải sáng tạo năng lượng từ rác); Kinh tế nước (với trọng tâm chính sách là định giá đúng đối với nước từ các nguồn khác nhau và việc khai thác sử dụng nước phải tuân thủ đúng mức giá đã tính đầy đủ các chi phí kinh tế - xã hội chứ không chỉ chi phí tài chính.)
Về đầu tư năng lượng tái tạo, trong kế hoạch đầu tư công, dự án đầu tư thuộc lĩnh vực năng lượng tái tạo cần được đặt lên ưu tiên hàng đầu và những cơ chế ưu đãi cao nhất cần được áp dụng cho việc thu hút đầu tư tư nhân cả trong và ngoài nước vào lĩnh vực này.
Ưu tiên chính sách thứ nhất là củng cố lưới điện để truyền tải điện tái tạo từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Lưới điện cũng cần được đầu tư theo hướng “thông minh” để có thể phản ứng linh hoạt với những biến động của cung và cầu. Chi phí cân bằng và ổn định lưới điện sử dụng pin lưu trữ đang giảm đi. Khác với quá trình lưu chuyển năng lượng tái tạo vốn mất nhiều thời gian, giải pháp cân bằng lưới điện dùng pin lưu trữ là xu hướng tất yếu đang được các công ty điện lực toàn cầu sử dụng ngày một phổ biến. Hệ thống lưới điện mạnh hơn và thông minh hơn sẽ giảm thiểu các sự cố mất điện và có giá cả phải chăng.
Ưu tiên chính sách tiếp theo là cần xây dựng một hệ thống đấu thầu giá điện cho các nhà sản xuất năng lượng tái tạo. Vì điện mặt trời và gió (cũng như hydro) có chi phí vận hành thấp hoặc gần bằng không, còn lại chủ yếu là chi phí cố định, nên các nguồn phát này có lợi thế tự nhiên khi tham gia đấu thầu giá điện so với nguồn điện than hay khí đốt (vốn không thể trả giá thấp hơn chi phí nhiên liệu nếu không muốn bù lỗ).
Dù các nhà sản xuất điện tái tạo luôn muốn có hợp đồng bao tiêu, nhưng họ cũng sẽ hài lòng với cơ chế đấu thầu giá điện công khai, minh bạch do trung tâm điều độ độc lập quản lý. Giải pháp thay thế cho cơ chế đấu thầu là hợp đồng bao tiêu dài hạn ở một mức giá xác định với các điều khoản giống các dự án năng lượng hóa thạch. Giải pháp này sẽ giúp các dự án năng lượng tái tạo dễ tiếp cận vốn vay ngân hàng cũng như các khoản vay quốc tế có chi phí thấp và dài hạn hơn. Tuy nhiên, loại hợp đồng này sẽ tăng gánh nặng cho Nhà nước bởi khi đó rủi ro sa thải công suất điện sẽ được chuyển từ các dự án năng lượng gió và mặt trời sang đơn vị mua điện.
Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Chuyển đổi xanh đang là một xu thế tất yếu của tất cả các nền kinh tế trên thế giới và Việt Nam chúng ta không là ngoại lệ. Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi nền kinh tế trên quy mô lớn, ở tất cả các lĩnh vực, các khu vực kinh tế. Đòi hỏi sự đồng thuận trong thay đổi tư duy và hành động của các chủ thể, đặc biệt là các địa phương và doanh nghiệp.
“Như phân tích của chuyên gia, chúng ta thấy rõ những thách thức rất lớn, song cũng mở ra nhiều cơ hội để phát triển các mô hình kinh tế mới, các mô hình sản xuất kinh doanh bền vững hơn. Và đó cũng chính là động lực mới cho sự tăng trưởng, phát triển thịnh vượng và vững bền trong tương lai”, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nhấn mạnh.
Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, Diễn đàn ngày hôm nay quy tụ được rất nhiều các vị chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong nước và nước ngoài, các địa phương, các hiệp hội ngành hàng, hiệp hội doanh nghiệp và lãnh đạo các Tập đoàn, doanh ngiệp đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài cũng như đại diện của các cơ quan Chính phủ, các cơ quan Quốc hội là những cơ quan xây dựng chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội. Với tinh thần cầu thị, Diễn đàn rất muốn lắng nghe các ý kiến phát biểu, đóng góp của các Quý vị đại biểu.
Phát biểu qua video, ông Alexander Böhmer, Trưởng Ban Hợp tác và Quan hệ toàn cầu, Khu vực Nam Á và Đông Nam Á, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tại Pháp cho biết OECD có 38 thành viên trên toàn cầu. Đông Nam Á là khu vực có sự phát triển năng động, có tầm ảnh hưởng lớn, trọng tâm của báo cáo của OECD đã đưa ra những dự báo tăng trưởng của khu vực này, trong đó ASEAN có mức tăng trưởng đạt 5,6% trong năm 2022; Dự báo mức tăng trưởng chung đạt 4,2% vào năm 2023 và tăng lên 4,7% vào năm 2024.
OECD dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm nay dự báo gặp khó khăn nên hạ dự báo tăng trưởng GDP xuống 4,9%, dự kiến tăng lên 5,9% vào năm 2024. Tốc độ phát triển kinh tế xã hội tích cực năm 2022 đã và đang góp phần cải thiện an sinh xã hội trong những năm gần đây; đồng thời nền kinh tế cũng cho thấy khả năng chống chịu với những cú sốc từ bên ngoài.
Theo OECD, những cải cách sâu hơn nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy kinh doanh, mở rộng hệ thống lương hưu và phúc lợi là cần thiết cho sự phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam.
Điều quan trọng, Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn vào giáo dục và dạy nghề để nâng cao năng lực chuyển đổi số của người lao động, ông Alexander BÖHMER nhấn mạnh.
Chia sẻ kinh nghiệm về ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn trong quy trình sản xuất của Heineken tại Việt Nam, Ông Alexander Koch, Tổng Giám đốc Điều hành Công ty Bia Heineken Việt Nam cho biết, Heineken Việt Nam nỗ lực nâng cao tiêu chuẩn hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững năm 2030, đóng góp quan trọng vào GDP của Việt Nam.
Theo Tổng Giám đốc Điều hành Công ty Bia Heineken Việt Nam, kể từ tháng 9/2022, Công ty chính thức khai trương Nhà máy bia lớn nhất Đông Nam Á ở Bà Rịa – Vũng Tàu. Đây là nhà máy được thiết kế thân thiện với môi trường, tận dụng ánh sáng tự nhiên, giảm tổng mức tiêu thụ năng lượng đáng kể.
Về phát triển tuần hoàn, Heineken Việt Nam tối đa hóa tính tuần hoàn ở các sản phẩm; áp dụng quy trình quản lý rác thải hiệu quả nhằm làm cho thế giới ngày càng xanh hơn; các sản phẩm của Heineken có thể tái sử dụng; giúp thương hiệu này ngày càng bền vững hơn và xanh hơn.
Ông Alexander Koch nêu rõ, Heineken xác định yếu tố tuần hoàn không chỉ được áp dụng với nước ở nhà máy bia Vũng Tàu, mà trên thực tế, tất cả chất thải, sản phẩm phụ đều được đưa trở lại chuỗi cung ứng thông qua việc tái sử dụng, tái chế. Nhà máy là minh chứng điển hình cho thấy Heineken hướng tới mục tiêu phát triển xanh ở Việt Nam trong suốt 31 năm hoạt động.