Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng gần gũi có nhiều nét tương đồng về lịch sử, vị trí địa lý, trình độ phát triển kinh tế, đều khát khao giành và giữ độc lập. Dân tộc Campuchia có nền văn minh Angkor huy hoàng, dân tộc Việt Nam có nền văn hiến nghìn năm. Nhân dân hai nước đều là nạn nhân của chiến tranh, có cùng khát khao, quý trọng hòa bình, mong muốn giữ mãi quan hệ hữu nghị truyền thống của hai dân tộc.
Ý nghĩa và giá trị của tình đoàn kết Việt Nam - Campuchia
Xuất phát từ tinh thần đoàn kết đấu tranh chống lại kẻ thù chung trên bán đảo Đông Dương là thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ các cuộc chiến tranh biên giới; Việt Nam, Campuchia và Lào đã cùng sát cánh bên nhau vượt qua rất nhiều gian khổ, hy sinh để đi đến thắng lợi cuối cùng là giành được độc lập, tự do cho mỗi nước.
Từ nền tảng ban đầu do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thái Thượng hoàng Norodom Sihanouk xây dựng, mối quan hệ Việt Nam - Campuchia đã được các thế hệ lãnh đạo hai nước dày công vun đắp và phát triển, coi đây là mối quan hệ chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi nước.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; nhân dân hai nước còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức,… nhưng với mong muốn và quyết tâm của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, mối quan hệ “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài Việt Nam - Campuchia” nhất định tiếp tục được giữ gìn, phát triển và nâng lên một tầm cao mới vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược ba nước Đông Dương giữa thế kỷ XIX (1858-1860), nhân dân ở ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đã ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, tạo bước chuyển biến về chất của quan hệ Việt Nam - Campuchia và cũng là sự kiện đánh dấu sự ra đời của quy luật giành thắng lợi: Ba nước Đông Dương phải đoàn kết thành một khối thống nhất trong công cuộc chống ngoại xâm, giành độc lập và xây dựng đất nước mình.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (sau này là Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Khmer), nhân dân hai nước Việt Nam và Campuchia đã giúp đỡ lẫn nhau xây dựng lực lượng cách mạng, liên minh chiến đấu, từng bước giành thắng lợi cho cả hai dân tộc. Sức mạnh đoàn kết Việt Nam - Campuchia - Lào đã góp phần quan trọng buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (20/7/1954), chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Campuchia và Lào.
Đánh giá sự kiện này, đồng chí Lê Duẩn viết: “Trải qua 9 năm kháng chiến gian khổ, với sự giúp đỡ tận tình của Đảng và nhân dân Việt Nam, nhân dân Khmer hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc: Quốc gia Campuchia được độc lập và thống nhất, lãnh thổ được toàn vẹn, tổng tuyển cử tự do. Đó là thắng lợi của nhân dân Khmer đã chịu đựng gian khổ và trường kỳ võ trang chiến đấu trong hàng ngũ của Mặt trận Ítxarắc. Đó là thắng lợi của cán bộ và chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam sang hoạt động ở Campuchia, với tinh thần quốc tế cao cả đã chiến đấu, hy sinh vì nền độc lập của Campuchia. Họ đã hoàn thành nhiệm vụ đối với cách mạng giải phóng dân tộc Khmer và đồng thời làm tròn nhiệm vụ với cách mạng Việt Nam. Đó là thắng lợi của khối liên minh nhân dân Việt Nam - Campuchia - Lào và cùng là của Đảng Cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo cách mạng toàn Đông Dương và chủ trương thành lập khối ấy; của Đảng Lao động Việt Nam đã tận tình giúp đỡ cách mạng Khmer. Không có phong trào Ítxarắc, quan hệ khăng khít với cách mạng Việt Nam và phong trào hòa bình, dân chủ thế giới, dân tộc Khmer không thu được thắng lợi lớn lao như vậy”.
Sau khi thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương, đế quốc Mỹ đã sử dụng nhiều thủ đoạn xâm lược với mức độ khác nhau đối với từng nước Việt Nam, Campuchia, Lào và trở thành kẻ thù chung của nhân dân Đông Dương. Trước bối cảnh đó, Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa chủ trương thắt chặt quan hệ với Chỉnh phủ Vương quốc Campuchia và luôn coi trọng phát triển khối đoàn kết chặt chẽ giữa nhân dân hai nước vì mục tiêu chống đế quốc Mỹ xâm lược, vì độc lập, hòa bình và phồn vinh của hai dân tộc.
Ngày 24/6/1967, Việt Nam và Campuchia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, đặt nền móng cho mối quan hệ ngoại giao đặc biệt giữa hai nước. Nhờ có mối quan hệ tốt đẹp đó, Việt Nam đã có điều kiện chuyên chở hàng hóa, vũ khí qua cảng Sihanouk Ville và đường mòn Hồ Chí Minh qua lãnh thổ Campuchia để chi viện cho chiến trường miền Nam.
Việt Nam và Campuchia chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 24/6/1967 là sự kiện lịch sử trọng đại, được nhân dân hai nước cũng như bạn bè quốc tế tiến bộ hoan nghênh, đánh giá cao.
Trong bức điện gửi Quốc trưởng Campuchia Norodom Sihanouk ngày 23/6/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ “Việc đặt quan hệ ngoại giao giữa hai nước chúng ta là biểu hiện rực rỡ của mối tình hữu nghị thân thiết và đoàn kết chiến đấu. Đó là sự kiện lịch sử trong quan hệ giữa Việt Nam - Campuchia, một nhân tố tích cực trong việc giữ gìn hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á”.
Lúc sinh thời, Quốc vương Norodom Sihanouk thường nhắc lại những kỷ niệm sâu sắc với lãnh đạo Việt Nam qua các thời kỳ. Trong đó, có sự kiện ông đã dẫn đầu đoàn cấp cao Campuchia mang vòng hoa tới Hà Nội kính viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam từ trần vào năm 1969.
Sau khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia (năm 1970), quan hệ Việt Nam - Campuchia đã thực sự trở thành liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung. Khối liên minh đoàn kết Việt Nam - Campuchia - Lào đã tạo điều kiện để cách mạng Campuchia xây dựng được lực lượng vũ trang mạnh, phối hợp được với quân tình nguyện Việt Nam đánh bại các cuộc tiến công của Mỹ - ngụy và quân Lon Nol trên chiến trường Campuchia, làm thất bại chiến lược “Khmer hóa chiến tranh”, “Đông Dương hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Liên minh chiến đấu Việt Nam - Campuchia - Lào đã tạo điều kiện để Việt Nam củng cố và mở rộng được hệ thống hành lang chiến lược; xây dựng và phát huy được tác dụng to lớn của căn cứ địa cách mạng, hậu phương chiến lược, hậu cần tại chỗ trên chiến trường Campuchia bảo đảm cung ứng cho chiến trường miền Nam Việt Nam,… Tình đoàn kết, liên minh chiến đấu Việt Nam - Campuchia - Lào thực sự là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp, đánh bại đế quốc Mỹ, giải phóng ba nước ngay trong năm 1975.
Đúng như Hoàng thân Norodom Sihanouk khẳng định: “Việc giải phóng Phnom Penh và Sài Gòn… chứng tỏ sự thống nhất và đoàn kết được xây dựng trên cơ sở vững chắc của Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương lịch sử và hữu ích biết bao… Thắng lợi của Việt Nam cũng là thắng lợi của tất cả các dân tộc ở Đông Dương chúng ta và của toàn thể các dân tộc trong thế giới thứ ba. Loài người nói chung và nước Campuchia nói riêng sẽ không bao giờ quên sự đóng góp vô giá và không gì so sánh nổi của các bạn vào thắng lợi đó”.
Khẳng định ý nghĩa và giá trị của tình đoàn kết Việt Nam - Campuchia và rộng hơn là khối đoàn kết Việt Nam - Campuchia - Lào đối với sự nghiệp chống đế quốc xâm lược của ba dân tộc, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu nêu rõ: “Trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc của Việt Nam - Lào - Campuchia đối với chủ nghĩa thực dân, ba nước đã có sự gắn bó, phối hợp để chống kẻ thù chung, cho nên Việt Nam giúp Lào, Campuchia và ngược lại Lào, Campuchia cũng giúp Việt Nam. Ba dân tộc đều có sự phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Riêng về Việt Nam, chúng tôi luôn biết ơn Nhà nước và nhân dân hai nước Campuchia và Lào”.
Sau khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược thắng lợi (4/1975), nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia hơn lúc nào hết chỉ mong muốn được sống trong hòa bình, tiếp tục quan hệ hữu nghị, hợp tác, cùng nhau xây dựng, bảo vệ nền độc lập và phát triển đất nước. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh hai nước Việt Nam - Campuchia tiếp tục bước vào mặt trận đoàn kết mới đó là: Đoàn kết chống chế độ diệt chủng, hồi sinh dân tộc và tìm giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia từ năm 1975 đến 1993. Trong đó, Việt Nam giúp đỡ Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng, khôi phục quan hệ giữa hai nước (từ tháng 6 năm 1978 đến tháng 1 năm 1979); ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác; giúp Campuchia khắc phục hậu quả của chế độ diệt chủng, bước đầu ổn định đời sống nhân dân (1979-1982); hợp tác thực hiện ba mục tiêu chiến lược của cách mạng Campuchia (1983-1985); đổi mới quan hệ giữa hai Đảng, đẩy nhanh tiến trình rút chuyên gia, quân tình nguyện Việt Nam về nước, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tìm giải pháp chính trị ở Campuchia (1986-1989); hợp tác tìm giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia (1989-1991); hợp tác trong việc thực hiện Hiệp định quốc tế Paris về Campuchia (1991-1993). Từ năm 1993, Việt Nam - Campuchia tiến tới hợp tác toàn diện giai đoạn (1993-2010); củng cố, tăng cường, định hướng nội dung quan hệ hợp tác toàn diện, chủ yếu giai đoạn (2011-2020).
Phát triển mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” lên tầm cao mới
Có thể nói, trải qua những thăng trầm của lịch sử, quan hệ Việt Nam - Campuchia đã được thử thách, tôi luyện và phát triển ngày càng sâu rộng, thiết thực và hiệu quả trên các lĩnh vực, trở thành tài sản chung quý báu của hai dân tộc. Những thành tựu quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Campuchia trong suốt quá trình lịch sử, đặc biệt trong thời gian gần đây thể hiện trên các lĩnh vực:
Quan hệ chính trị không ngừng phát triển và đã thực sự đóng vai trò nòng cốt định hướng trong tổng thể quan hệ hai nước. Hai bên luôn nhấn mạnh tầm quan trọng và quyết tâm củng cố quan hệ hợp tác truyền thống giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia, trong đó quan hệ chính trị - ngoại giao giữ vai trò nòng cốt. Hằng năm, lãnh đạo cấp cao hai nước đều có các cuộc gặp gỡ, trao đổi dưới nhiều hình thức và đã đạt được nhiều thỏa thuận chiến lược, vừa định hướng cho tổng thể quan hệ, vừa kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nhằm thúc đẩy sự hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Trong các chuyến thăm chính thức lẫn nhau, lãnh đạo hai nước luôn khẳng định tôn trọng và thực hiện đầy đủ các hiệp ước, hiệp định, thỏa thuận mà hai bên đã ký kết, trong đó có hiệp định, thỏa thuận liên quan đến hoạch định biên giới. Đặc biệt, Cố Quốc vương Norodom Sihanouk trước đây, Quốc vương Norodom Sihamoni sau này, cũng như Thủ tướng Hun Sen và các vị lãnh đạo khác của Campuchia luôn luôn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh to lớn mà Việt Nam đã dành cho Campuchia và mong muốn “mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Campuchia mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”. Lãnh đạo Việt Nam cũng thường khẳng định: “Vận mệnh của hai dân tộc là không thể tách rời nhau, đó là một chân lý từ thực tiễn lịch sử của hai nước”. Năm 2005, lãnh đạo hai nước đã thống nhất xác định khuôn khổ quan hệ Việt Nam – Campuchia là quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” và từ đó đến nay lãnh đạo và nhân hai nước luôn không ngừng phấn đấu vun đắp quan hệ giữa hai nước theo phương châm đó.
Trong hai năm 2020 và 2021, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, hai bên đều phải căng mình đối phó và ngăn chặn đại dịch, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ, ban, ngành, địa phương và các tổ chức nhân dân đã thường xuyên có các cuộc điện đàm thăm hỏi, chia sẻ và động viên lẫn nhau. Hai bên cùng thể hiện quyết tâm phối hợp chặt chẽ trong phòng, chống dịch bệnh, kịp thời giải quyết mọi khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện tốt nhất cho nhau, ủng hộ và hỗ trợ lẫn nhau một cách kịp thời cả về tài chính, trang thiết bị, vật tư y tế và vaccine để phòng, chống dịch.
Hợp tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả, là trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước. Hai bên phối hợp giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và phát triển ở mỗi nước, tiếp tục phối hợp thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác 5 năm, cũng như kế hoạch hợp tác hằng năm giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an Việt Nam với Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ Campuchia; hai bên thường xuyên trao đổi thông tin, tình hình, chia sẻ kinh nghiệm, ngăn chặn và vô hiệu hóa các hoạt động của các lực lượng thù địch chống phá Việt Nam, Campuchia và quan hệ hai nước; tăng cường phối hợp tuần tra chung, giữ vững an ninh, trật tự, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới trên bộ và trên biển; tổ chức giao lưu kết nghĩa, duy trì đường dây nóng, phối hợp đấu tranh chống các loại tội phạm xuyên quốc gia, các hoạt động xâm canh, xâm cư, vượt biên trái phép, giải quyết các vấn đề nảy sinh, xây dựng củng cố, quản lý đường biên giới, vành đai an ninh, hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn khu vực biên giới; tiếp tục tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Campuchia; trùng tu, tôn tạo các Đài Hữu nghị Việt Nam - Campuchia.
Với sự quyết tâm và nỗ lực của cả hai bên, Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành 84% khối lượng công việc phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền, tháng 10/2019, hai bên đã ký kết Hiệp ước bổ sung năm 2019 và Nghị định thư ghi nhận thành quả này và sau đó Quốc hội hai nước đã phê chuẩn 2 văn kiện pháp lý quan trọng nói trên, tạo nền tảng để hai bên duy trì ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực biên giới. Trong chuyến thăm mới đây của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, hai bên khẳng định tiếp tục làm sâu sắc hơn nữa hợp tác quốc phòng-an ninh, đẩy mạnh đàm phán nhằm sớm hoàn thành nốt 16% biên giới trên đất liền còn lại. Hai bên nhất trí phối hợp, tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề phát sinh, trên tinh thần đoàn kết, hữu nghị, góp phần xây dựng một đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác cùng phát triển.
Thời gian qua, hai bên cũng đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong các hoạt động đối ngoại, thực hiện tham vấn chính trị, chia sẻ thông tin kịp thời và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là trong khuôn khổ hợp tác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc và các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mê Công. Có thể nói hợp tác an ninh, quốc phòng và đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, an ninh, ổn định cho sự phát triển của mỗi nước; góp phần duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục khoa học - kỹ thuật từng bước phát triển tích cực. Trên nền tảng quan hệ chính trị tốt đẹp, các lĩnh vực hợp tác song phương Việt Nam - Campuchia những năm gần đây tiếp tục được đẩy mạnh. Các cơ chế hợp tác song phương và đa phương được coi trọng và thúc đẩy hiệu quả như: Hội nghị xúc tiến đầu tư và thương mại vào Campuchia; Hội chợ thương mại Việt Nam - Campuchia; Hội nghị hợp tác thương mại biên giới Việt Nam - Campuchia; giao lưu, hợp tác giữa các bộ, ngành, đoàn thể địa phương hai nước... Đặc biệt là các cơ chế hợp tác như Chương trình Hợp tác Kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Ủy hội sông Mê Công quốc tế (MRC), Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Công (ACMECS). Hợp tác khu vực Tam giác phát triển Campuchia – Lào - Việt Nam là cơ chế hợp tác quan trọng duy trì sự ổn định về an ninh chính trị, an toàn xã hội tại biên giới ba nước. Thông qua các cơ chế phối hợp, nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai nước đã được triển khai và đạt được những kết quả quan trọng. Hai bên chủ động, tích cực triển khai các hiệp định giữa hai Chính phủ và thỏa thuận tại các kỳ họp Ủy ban hỗn hợp về kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật; tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, kịp thời trao đổi tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy hợp tác.
Nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác kinh tế, Chính phủ hai nước thỏa thuận việc xây dựng và thực hiện cơ chế mở cửa thông thoáng cho các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, du lịch liên quốc gia, hợp tác lao động, thủ tục hải quan, xuất, nhập cảnh và các quy chế về thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào thị trường của nhau. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế và chính sách ưu đãi các doanh nghiệp về đào tạo lao động, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh, thực hiện xúc tiến đầu tư, thương mại, tổ chức các diễn đàn, tham gia hội chợ, xúc tiến thị trường tại Campuchia và Việt Nam; đa dạng hóa các hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Campuchia và ngược lại.
Trong hợp tác đầu tư, Việt Nam có 188 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Campuchia với tổng số vốn đăng ký 2,88 tỷ USD, đứng thứ 5 trong số các nước đầu tư vào Campuchia, chủ yếu là các lĩnh vực nông nghiệp (chiếm gần 70% tổng vốn đăng ký); tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông; các dự án còn lại nằm trong các lĩnh vực hàng không, khoáng sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, vận tải kho bãi, y tế, xây dựng, du lịch - khách sạn, bất động sản và các dịch vụ khác. Sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của Chính phủ hai nước là một trong những cơ sở thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, đầu tư giữa hai nước có bước phát triển mạnh trong những năm qua. Hai bên cũng tổ chức nhiều sự kiện quan trọng như: Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Campuchia, Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam - Campuchia nhằm thúc đẩy hợp tác đầu tư giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả. Nhờ đó, hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Campuchia có sự chuyển biến mạnh mẽ với vai trò quan trọng của các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn.
Về thương mại, Việt Nam và Campuchia đều là thành viên của ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đây là một thuận lợi lớn thúc đẩy sự phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhất là hoạt động thương mại của hai nước. Hai bên quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi thuế quan cho hàng hóa xuất xứ từ mỗi nước; coi trọng hợp tác thương mại biên giới; hỗ trợ giúp đỡ địa phương giáp biên giới hai nước đẩy mạnh các hoạt động giao lưu thương mại. Thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương Việt Nam - Campuchia giai đoạn 2019 - 2020 đã cam kết những ưu đãi về thuế suất thuế nhập khẩu 0% đối với các mặt hàng có xuất xứ từ hai nước. Cụ thể, phía Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi 0% đối với 26 mặt hàng khi nhập khẩu vào thị trường Campuchia. Đây là những ưu đãi đặc biệt mà Campuchia chỉ dành cho Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng dành ưu đãi đặc biệt thuế suất nhập khẩu 0% cho 32 mặt hàng của Campuchia, phần lớn là nông sản.
Hoạt động hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Campuchia được xúc tiến tích cực bằng nhiều hoạt động của diễn đàn doanh nghiệp, hội chợ triển lãm hàng không Việt Nam tại Campuchia, mở khu kinh tế cửa khẩu; xây dựng hành lang pháp lý, kết cấu hạ tầng phục vụ thương mại ngày càng gia tăng giữa hai bên. Hai năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch COVID-19, nhưng quan hệ thương mại giữa hai nước có sự tăng trưởng đột phá: tổng kim ngạch hai chiều năm 2020 đạt 5,32 tỷ USD, năm 2021, đạt 9,53 tỷ USD, tăng gần 80% so với năm 2020. Việt Nam luôn sẵn sàng chào đón hàng hóa của Campuchia và trên thực tế trong những năm gần đây, xuất khẩu nông sản của Campuchia, đặc biệt là mặt hàng gạo (hơn 2 triệu tấn), hạt điều, hồ tiêu, cao su… có mức gia tăng cao.
Hợp tác giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là lĩnh vực được hai bên đặc biệt quan tâm, coi đây là vấn đề trọng yếu có tầm chiến lược, góp phần tích cực củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị, lâu dài giữa nhân dân hai nước vì mục tiêu phát triển của mỗi nước. Hằng năm, Việt Nam dành cho Campuchia hàng trăm suất học bổng đào tạo dài hạn và ngắn hạn. Campuchia cũng dành cho phía Việt Nam 35 suất học bổng, bao gồm 15 suất học bổng đại học và sau đại học, 20 suất học bổng đào tạo ngôn ngữ, văn hóa Khơ-me trong vòng hai năm. Hiện có khoảng 200 sinh viên Việt Nam đang học tập tại Campuchia. Ngoài ra, hai bên tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dạy nghề thông qua việc tổ chức các hoạt động phát triển nguồn nhân lực. Đây thực sự là nguồn bổ sung nhân lực rất quan trọng, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Hợp tác giữa các bộ, ban, ngành, các ủy ban của Quốc hội, đoàn thể và tổ chức nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh và đi vào thực chất hơn. Hai bên trao đổi các đoàn, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các địa phương có chung đường biên giới, tiếp tục mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm sóc y tế, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn tại các khu vực biên giới hai nước.
Nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia đã trải qua thăng trầm của lịch sử với nhiều bài học kinh nghiệm xương máu, đã kề vai sát cánh bên nhau trên tinh thần tin cậy; lãnh đạo và nhân dân hai nước khẳng định quyết tâm tiếp tục cùng nhau vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị cao đẹp, hợp tác Việt Nam - Campuchia phát triển toàn diện, bền vững lâu dài.
Trên tinh thần đó, quan hệ Việt Nam - Campuchia chắc chắn sẽ tiếp tục được nâng lên tầm cao mới, vì lợi ích thiết thực của nhân dân hai nước và đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới.