Tín chỉ carbon rừng tại Việt NamBài 3: Tiềm năng lớn nhưng cần chính sách song hành
Việt Nam có lợi thế rất lớn với trữ lượng rừng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến lược cắt giảm phát thải khí nhà kính, hiện thực hóa cam kết Net-Zero, thông qua việc xây dựng các dự án tín chỉ carbon. Cùng với việc bảo vệ và phát triển rừng bền vững, Việt Nam đang dần hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm đáp ứng các điều kiện để kinh doanh tín chỉ carbon rừng.
Nhiều địa phương xây dựng đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ carbon rừng
Tín chỉ carbon rừng được tạo ra từ các hoạt động dự án giảm phát thải khí nhà kính như giảm mất rừng và suy thoái rừng; tăng cường bể hấp thụ từ hoạt động trồng rừng, tái trồng rừng và tái tạo thảm thực vật và hoạt động tăng cường quản lý rừng. Chủ rừng có thể quy đổi diện tích rừng đang quản lý, bảo vệ ra lượng hấp thụ khí CO2, ra tín chỉ carbon và có thể bán tín chỉ này tại thị trường carbon qua cơ chế giảm phát thải khí nhà kính.
Quảng Nam là địa phương được Chính phủ đồng ý cho phép lập Đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ các bon rừng từ giảm phát thải khí nhà kính thông qua chống mất rừng và suy thoái rừng, quản lý bền vững tài nguyên rừng trong vòng 5 năm (2021-2025). Theo đề án với 680.000 ha rừng, khả năng hấp thụ khoảng hơn 11,2 triệu tấn khí carbon trong giai đoạn từ 2018-2030, mỗi năm Quảng Nam có thể thu về khoảng 5 triệu USD từ việc bán tín chỉ carbon rừng. Hiện nay, có 5 công ty nước ngoài đăng ký mua lại giấy phép/tín chỉ carbon rừng.
Tỉnh Tuyên Quang, hiện có gần 426.000 ha rừng, trong đó: Diện tích rừng tự nhiên 233.000 ha; diện tích rừng trồng hơn 193.000 ha. Tuyên Quang là tỉnh có diện tích rừng trồng được cấp chứng chỉ rừng FSC lớn nhất cả nước. Tuyên Quang đứng top đầu cả nước về độ che phủ rừng. Mỗi năm có khoảng 4 triệu tín chỉ carbon để bán.
Tỉnh Kon Tum, năm 2018 đã triển khai Dự án REDD+ tại xã Hiếu, huyện Kon Plong, với mục tiêu chống mất rừng và suy thoái rừng trên diện tích khoảng 1.200 ha, kết hợp trồng rừng hơn 100 ha diện tích đất rừng bị suy thoái. Đây là một hợp phần của Dự án “Bảo vệ và quản lý tổng hợp các hệ sinh thái rừng thuộc các tỉnh Quảng Nam, Kon Tum và Gia Lai” (gọi tắt là dự án KfW10). Dự án được KfW10 hỗ trợ tài chính, đơn vị hỗ trợ kỹ thuật là Tổ chức Bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (FFI) có vai trò điều phối và thúc đẩy dự án, thay mặt cho cộng đồng thực hiện bán tín chỉ carbon.
Thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) đã được ký kết ngày 22/10/2020 giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng thế giới (WB). Với thỏa thuận này, Việt Nam sẽ chuyển nhượng lượng giảm phát thải 10,3 triệu tấn CO2e ở vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018-2024 cho WB với tổng số tiền 51,5 triệu USD.
Theo đó, dự án tín chỉ carbon rừng từ REDD+ trong thời gian từ tháng 6/2022 đến 12/2026 được xây dựng theo tiêu chuẩn; năm 2022 bán 1,5 triệu tín chỉ của các năm 2018, 2019 và 2020; năm 2024 bán 2,5 triệu tín chỉ của các năm 2021, 2022, 2023; năm 2026 bán 2,1 triệu tín chỉ của các năm 2024, 2025. Tuy nhiên, Đề án triển khai chưa hiệu quả do thiếu các quy định về quy trình, thủ tục, trách nhiệm của các bên liên quan, cơ chế tài chính của một dự án kinh doanh tín chỉ carbon rừng ở từng giai đoạn.
Dự án được thiết kế theo tiêu chuẩn Plan Vivo. Hồ sơ dự án đã được Tổ chức Plan Vivo thẩm tra. Lượng carbon rừng được hấp thụ và lưu giữ tăng thêm từ các hoạt động can thiệp chống mất rừng được xác định là 5.217 tấn trong 30 năm, bình quân mỗi năm là 1.700 tấn CO2. Năm 2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổ chức Tăng cường tài chính lâm nghiệp (Emergent) là cơ quan ủy thác của Liên minh giảm phát thải thông qua tăng cường tài chính cho rừng (LEAF) đã ký Ý định thư (LOI) để chuyển nhượng 5,15 triệu tCO2e từ rừng của các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Sáng kiến LEAF: Liên minh giảm phát thải thông qua tăng cường tài chính lâm nghiệp được thành lập với mục tiêu chấm dứt nạn mất rừng tự nhiên thông qua cung cấp tài chính cho nỗ lực bảo vệ rừng của các quốc gia có qui mô lớn hơn 2,5 triệu ha. Liên minh (LEAF) gồm 4 chính phủ tài trợ ( Anh, Hoa Kỳ, Na Uy, Hàn Quốc) và 25 Doanh nghiệp như: Burberry; Amazon, Delta, H&M Group...
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chúng ta có tổng cộng 14,6 triệu ha rừng, trong đó rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha, rừng trồng là 4,3 triệu ha, ước tính có thể bán ra 57 triệu tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế và nếu tính theo giá 10 USD/tín chỉ, mỗi năm, có thể thu về hàng trăm triệu USD. Đó là những con số rất ấn tượng hứa hẹn là nguồn tài nguyên mới.
Tỉnh Kon Tum có hơn 616.123 ha rừng, trong đó Rừng tự nhiên là 552.287 ha, rừng trồng là 63.836,09 ha nếu tính đầy đủ thep phương pháp tính của Cục lâm nghiệp mỗi năm Kon Tum có khoảng 2 triệu tấn carbon đưa ra thị trường thu về hơn 10 triệu USD.
Mặc dù là một thị trường sôi động đầy hứa hẹn nhưng số lượng dự án tín chỉ carbon rừng được đăng ký còn rất hạn chế. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến số lượng đăng ký hạn chế nêu trên, từ sự phức tạp của phương pháp luận; tính chặt chẽ trong yêu cầu thu thập, giám sát dữ liệu đến những rủi ro trong quá trình thực hiện các dự án rừng.
Cần có công cụ pháp lý phù hợp
Năm 2020 là mốc thời gian quan trọng trong việc chuẩn bị cho hình thành thị trường carbon rừng ở Việt Nam với Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Luật nêu rõ việc “tổ chức và phát triển thị trường carbon” như là công cụ kinh tế để thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính trong nước, góp phần thực hiện đóng góp về giảm nhẹ do Việt Nam cam kết khi tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Đặc biệt, Điều 139 đã quy định khá rõ về tổ chức và phát triển thị trường carbon, cụ thể: khoản 1 Điều 139 nêu rõ thị trường carbon trong nước gồm các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon thu được từ cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Khoản 7 Điều 139 quy định: cơ sở phát thải khí nhà kính tham gia thị trường carbon trong nước thực hiện trao đổi, đấu giá, vay mượn, nộp trả, chuyển giao hạn ngạch, tín chỉ carbon; thực hiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước, quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Ngày 07/01/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về quy định giảm nhẹ khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone. Theo đó, một số quy định liên quan đến carbon rừng, gồm:
Khoản 2 Điều 5 quy định các bộ, ngành quản lý lĩnh vực phải thực hiện giảm phát thải khí nhà kính, trong đó có Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Khoản 5 Điều 3 quy định: “Cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon là các cơ chế thực hiện việc đăng ký, triển khai các chương trình, dự án giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tạo tín chỉ carbon theo các phương pháp được quốc tế hoặc Việt Nam công nhận. Tín chỉ carbon từ các chương trình, dự án được trao đổi trên thị trường carbon hoặc bù cho lượng phát thải khí nhà kính vượt quá hạn ngạch được phân bổ”.
Điều 8: Tăng cường hấp thụ khí nhà kính quy định quy định các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư là chủ rừng hoặc người sử dụng đất xây dựng và thực hiện các biện pháp quản lý rừng bền vững, bảo vệ và nâng cao tỷ lệ che phủ, sinh khối và chất lượng rừng để tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính thì được tham gia các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước, quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Điều 16: Đối tượng tham gia thị trường carbon trong nước cũng quy định gồm tất cả tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được quy định tại Điều 8.
Gần đây nhất, Chính phủ ban hành Nghị định số 107/2022/NĐ-CP ngày 28/12/2022 về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ. Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn đứng ra đại diện cho Việt Nam ký thỏa thuận chuyển nhượng kết quả giảm phát thải. Nguồn thu từ chương trình được coi là nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng đối với dịch vụ hấp thụ và lưu trữ carbon và hạch toán riêng với các nguồn thu dịch vụ khác. Chi phí triển khai không chồng chéo với các khoản chi khác của ngân sách nhà nước.
Về định mức chi: Đối với khoán bảo vệ rừng, mức khoán tối thiểu bằng mức hỗ trợ của ngân sách nhà nước giao cho khoán bảo vệ rừng, tối đa không lớn hơn 02 lần mức hỗ trợ của ngân sách nhà nước cho khoán bảo vệ rừng theo đối tượng nhận khoán trên cùng địa bàn cấp tỉnh; mức cụ thể do UBND tỉnh quy định. Đối với các hoạt động hỗ trợ phát triển sinh kế, định mức hỗ trợ là 50.000.000 đồng/cộng đồng dân cư/năm. Đối với các nội dung chi khác, định mức chỉ được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành và được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Có thể thấy, đây là Nghị định đầu tiên giúp tạo ra một quy trình trong việc trao đổi, chuyển nhượng và triển khai carbon rừng ở Việt Nam; đồng thời đánh dấu bước ngoặt đưa Việt Nam bước đầu tiếp cận, tham gia cùng xu hướng chung của thế giới trong việc trao đổi, chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.
Chính phủ Việt Nam đang tiếp tục xây dựng các quy định, chính sách tạo nền tảng cho thị trường carbon rừng vận hành từ năm 2028. Thị trường carbon rừng của Việt Nam có tiềm năng mang lại nhiều lợi ích lớn, không chỉ cho mục tiêu giảm phát thải mà còn góp phần phát triển kinh tế – xã hội cho hơn 25 triệu người dân có sinh kế phụ thuộc vào rừng.
Theo ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) thông tin:
Để xã hội hóa nghề rừng, phát huy giá trị đa dụng của rừng, trong Luật Đất đai (sửa đổi) đang trình Quốc hội xem xét, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có đề xuất sửa đổi một số điều, như cho phép thuê môi trường rừng để trồng dược liệu. Như vậy, thị trường carbon không chỉ hỗ trợ mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế xanh. Những công cụ hỗ trợ giảm phát thải carbon hiện nay ngoài các tiêu chuẩn, quy chuẩn còn có những công cụ kinh tế, thuế.
Còn theo GS Nguyễn Ngọc Lung - Viện trưởng Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng nêu quan điểm: Trước đây, rừng tự nhiên cho 400-500m3 gỗ/ha. Cũng là cánh rừng tự nhiên này nhưng đến nay, chỉ cho 150-200m3/gỗ/ha. Điều này cho thấy, chất lượng rừng không cao do nạn chặt phá, đốt rừng lấy gỗ, làm nương rẫy. Để cải thiện chất lượng rừng, Nhà nước cần quan tâm đầu tư; tăng khối lượng gỗ sẽ đồng nghĩa với tăng hấp thụ carbon và nhờ đó, tín chỉ carbon rừng cũng sẽ tăng lên.
Giải pháp thúc đẩy hình thành thị trường carbon rừng ở Việt Nam trong thời gian tới
Từ những bất cập hiện hành, để tối ưu hóa tiềm năng và phát triển bền vững của thị trường carbon rừng, Việt Nam cần xây dựng và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, bao gồm nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách, công tác quản lý và nhóm giải pháp về công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực.
Đối với nhóm cơ chế, chính sách, công tác quản lý
Để tạo cơ sở cho việc bán tín chỉ carbon rừng, Việt Nam cần sớm công bố quy hoạch thực hiện cam kết quốc gia tự nguyện. Bên cạnh đó, cần có những quy định về thể chế chung đối với carbon rừng, nâng cao chế định quản lý nhà nước đối với carbon rừng như điều tra, thống kê, kiểm kê, đánh giá trữ lượng carbon rừng trong công bố hiện trạng rừng toàn quốc hàng năm.
Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách hiện có, bao gồm: các chính sách quản lý rừng bền vững, hỗ trợ mở rộng các diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững, mở rộng diện tích trồng rừng gỗ lớn, xây dựng các biện pháp bảo đảm an toàn, đặc biệt làm rõ về sở hữu carbon rừng trong mối quan hệ với quyền sở hữu rừng, vì đây là điều kiện rất quan trọng để thực hiện chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng.
Do tín chỉ carbon rừng là loại hàng hóa đặc biệt để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh lĩnh vực này, Chính phủ cần sớm ban hành nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư năm 2020 về cơ chế, chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh tín chỉ carbon rừng. Đây là hình thức hợp đồng được ký kết theo thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư nhằm đa dạng hóa các hình thức hợp tác góp phần mang lại hiệu quả cao trong việc đẩy mạnh kinh doanh tín chỉ carbon rừng theo xu thế hiện nay.
Đối với nhóm công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực
Để có thể đưa dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng ra thị trường, trước hết cần phải mời chuyên gia quốc tế hoặc một tổ chức có uy tín chuyên tính toán lượng giảm phát thải carbon thực hiện. Trong quá trình đó tiếp nhận và chuyển giao công nghệ (nếu được) và quan trọng nhất là cần nắm rõ họ sử dụng thông số nào, thời gian thực nào, không gian nào và cân đo đong đếm như thế nào?
Để đáp ứng nhu cầu phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng sắp tới, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để xây dựng, vận hành, khai thác thị trường tín chỉ carbon rừng, bởi đây là lĩnh vực mới và phức tạp.
Bên cạnh những thách thức về biến đổi khí hậu, Việt Nam cũng đang đứng trước cơ hội từ thị trường carbon rừng. Với diện tích rừng rộng lớn và tiềm năng phát triển cao, Việt Nam có thể đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong việc giảm phát thải khí nhà kính.
Hiện nay, dù đã có hành lang pháp lý liên quan đến các bon rừng và việc triển khai nhiều cơ chế, chính sách đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, qua giai đoạn triển khai nhiều chính sách còn bất cập. Do vậy, để thúc đẩy hình thành thị trường carbon rừng ở Việt Nam, Chính phủ cần thực hiện đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp, trong đó có việc xây dựng, thực thi chính sách, phát triển công nghệ mới và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.