Xử lý nước thải sinh hoạt đô thị ở Việt Nam – Bài 1: Đối diện nhiều thách thức lớn

Ngọc Hiển|06/04/2022 13:00
Theo dõi Môi trường & Cuộc sống trên

Moitruong.net.vn – Năng lực xử lý nước thải đô thị còn hạn chế khiến tình trạng ô nhiễm nguồn nước vẫn là thách thức lớn khiến cho dân cư ở các thành phố phải đối mặt với những vấn đề về môi trường.

Bài toán nan giải

Đô thị phát triển nhanh chóng khiến cho việc thoát nước, xử lý nước thải đô thị ngày càng nan giải, vấn đề đầu tư vào hệ thống kỹ thuật hạ tầng đô thị nói chung và hệ thống cấp thoát nước đô thị nói riêng còn nhiều hạn chế. Việc thiếu hụt hạ tầng kỹ thuật xử lý nước thải, nhiều hệ thống xử lý công nghệ chưa phù hợp đã dẫn tới tình trạng nước thải đô thị chưa qua xử lý được xả thẳng ra môi trường, đe dọa đến môi sinh và trở thành thách thức lớn cho các đô thị ở Việt Nam.

Báo cáo của UBND TP. Hà Nội cho biết, hiện thành phố có khoảng 5.735,44 km cống rãnh; 254,2 km mương, sông, kênh; 40.407 ga thu; 110.025 ga thăm các loại; 125 hồ điều hòa; 10 trạm bơm thoát nước mưa chính. Hiện nay thành phố đã có 6 nhà máy xử lý nước thải đưa vào hoạt động gồm: Kim Liên (công suất 3.700 m3/ngày đêm), Trúc Bạch (công suất 2.300 m3/ngày đêm), Bảy Mẫu (công suất 13.300 m3/ngày đêm), Yên Sở (công suất 200.000 m3/ngày đêm), Bắc Thăng Long – Vân Trì (42.000 m3/ngày đêm), Hồ Tây (15.000 m3/ ngày đêm). Các nhà máy xử lý nước thải này chỉ xử lý được 22% số lượng nước thải ra hằng ngày, còn tới 78% vẫn đang được xả thẳng ra môi trường.

Còn nhiều khó khăn trong việc xử lý nước thải đô thị

UBND TP. Hà Nội cũng thừa nhận tiến độ thực hiện các dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải còn kéo dài và số dự án cần thực hiện vẫn chưa đáp ứng được Kế hoạch số 189/KH-UBND ngày 30/12/2013 đề ra (còn 12 dự án cần được triển khai thực hiện). Bên cạnh đó, việc thực hiện Quy hoạch thoát nước thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 còn nhiều khó khăn. Các công trình đầu mối, hạng mục ưu tiên đầu tư nhưng chưa được triển khai do vốn đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước rất lớn, việc kêu gọi xã hội hóa gặp nhiều khó khăn.

Tại Đà Nẵng theo thống kê, tổng lượng nước thải sinh hoạt từ khu vực đô thị là gần 900.000 m3/ngày đêm. Trong khi đó, Tổng công suất thiết kế của các trạm xử lý nước thải đô thị đang vận hành mới khoảng 284.300 m3/ngày đêm (tức chỉ có khoảng 1/3 khối lượng nước thải được xử lý).

Các hệ thống kênh rạch tiêu thoát nước thải sinh hoạt của thành phố vẫn còn nhiều kênh hở và các cửa xả cũ, hư hại nặng. Trong khi tốc độ đô thị hóa diễn ra quá nhanh, lưu lượng xả thải liên tục tăng cao; theo thiết kế hệ thống thoát nước của Đà Nẵng chủ yếu là các tuyến cống chung, vì vậy khi trời mưa nước mưa sẽ pha lẫn với nước thải chảy tràn ra sông, biển gây ô nhiễm môi trường, gây bức xúc trong dư luận. Ngoài ra, hầu hết các cửa thu nước mưa không có cấu trúc ngăn mùi hôi nên người dân thường xuyên bịt cửa thu làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu thoát nước mưa, gây ngập úng…

Nước thải đô thị cũng là vấn đề nhức nhối của TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo của thành phố này cho biết, ước tính lượng nước thải từ sinh hoạt đô thị phát sinh khoảng 1.579.000 m3/ngày đêm. Hiện thành phố đang vận hành 03 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung với tổng công suất 302.000 m3/ngày đêm gồm: Bình Hưng giai đoạn 1 (công suất 141.000 m3/ ngày đêm), Bình Hưng Hòa (công suất 30.000 m3/ ngày đêm), Tham Lương – Bến Cát (công suất 131.000 m3/ngày đêm).

Nếu tính lượng nước thải được xử lý cục bộ tại khu dân cư mới, chung cư, công nghiệp, thương mại – dịch vụ (không bao gồm nước thải từ khu công nghiệp) thì tổng lượng nước thải thu gom xử lý của toàn thành phố là 370.624 m3/ngày đêm (đạt tỷ lệ 21,2%). Hiện nay TP. Hồ Chí Minh tiếp tục huy động mọi nguồn lực triển khai các dự án nhà máy xử lý nước thải đô thị tập  trung. Dự báo, trong điều kiện cuối năm 2020, nếu hoàn thành 03 nhà máy thì 80% lượng nước thải sinh hoạt đô thị của thành phố sẽ được thu gom, xử lý.

Những dữ liệu của TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng đã phần nào chỉ ra thực trạng xử lý nước thải đô thị ở Việt Nam.

Đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị ở Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (World Bank) cho biết, mặc dù 60% hộ gia đình Việt Nam đấu nối xả nước thải vào hệ thống thoát nước công cộng nhưng hầu hết nước thải được xả thẳng ra hệ thống tiêu thoát nước bề mặt và chỉ có 10% lượng nước thải được xử lý. Bên cạnh đó, khả năng thu hồi chi phí đầu tư xây dựng, chi phí vận hành và bảo dưỡng hệ thống xử lý nước thải nói chung còn thấp. Trong những năm tới, Việt Nam có nhu cầu vốn đầu tư rất cao, dự kiến cần tới 8,3 tỷ Đô la Mỹ để cung cấp dịch vụ thoát nước cho khoảng 36 triệu dân đô thị vào năm 2025.

Lượng lớn nước thải sinh hoạt không được thu gom, xử lý

Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, năm 2020, môi trường phải tiếp nhận hơn 3.650 triệu m3 nước thải sinh hoạt; trong đó nước thải sinh hoạt tại khu vực nông thôn chưa qua xử lý vẫn đang tiếp tục là nguồn thải lớn (chiếm khoảng 60% lượng nước thải), gây tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở cả đô thị và nông thôn.

Cả nước hiện có 49 nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung đã đi vào vận hành với tổng công suất thiết kế 1.181.380 m3/ngày đêm; hệ thống thoát nước trên toàn quốc đạt 60% nhưng tổng lượng nước thải được thu gom, xử lý tại các đô thị còn rất thấp, mới chỉ đạt khoảng 15%.

Lượng lớn nước thải sinh hoạt thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm nguồn nước mặt

Nguyên nhân của việc hạ tầng chưa đáp ứng được với tình hình thực tế nêu trên là do tỷ lệ các hộ đấu nối vào mạng lưới thoát nước đô thị nhiều nơi còn thấp (trong khi 90% hộ gia đình xả nước thải vào bể tự hoại chỉ 4% lượng phân bùn được xử lý); giá dịch vụ thoát nước vả xử lý nước thải quá thấp (trung bình chỉ bằng khoảng 10% giá nước sạch), chỉ đáp ứng được khoảng 10% chi phí xử lý thực tế.

Bên cạnh đó, năng lực của một số chủ thể liên quan (chính quyền địa phương, đơn vị tư vấn lập quy hoạch, chủ đầu tư dự án) chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa theo kịp sự phát triển của hệ thống và các công nghệ mới; khả năng thu hồi chi phí đầu tư xây dựng, chi phí vận hành và bảo dưỡng hệ thống xử lý nước thải nhìn chung còn thấp. Các đơn vị chịu trách nhiệm thoát nước và xử lý nước thải lại có quyền tự chủ rất hạn chế trong hoạt động quản lý vận hành và phát triển hệ thống.

Việc kiểm tra, giám sát đầu tư xây dựng các công trình thoát nước và xử lý nước thải theo quy hoạch cũng chưa được thực hiện thường xuyên.

Ngoài ra, đầu tư tài chính cho công tác quản lý nước thải còn thiếu và chưa cân đối mặc dù đã có sự tham gia của khối tư nhân; cơ chế huy động nguồn lực từ tư nhân còn chưa hiệu quả; năng lực của một số chủ thể liên quan (chính quyền địa phương, đơn vị tư vấn lập quy hoạch, chủ đầu tư dự án) chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa theo kịp sự phát triển của hệ thống và các công nghệ mới.

Nước thải ô nhiễm là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật, giảm chất lượng cuộc sống. Và đe dọa trực tiếp đến tính mạng con người. Cần có những biện pháp hiệu quả để xử lý nguồn ô nhiễm để hoạt động lao động, sinh sống và phát triển được diễn ra an toàn. Các địa phương nỗ lực tìm giải pháp để giải quyết vấn đề làm sạch nước thải đô thị, trước khi xây dựng đô thị sinh thái.

Ngọc Hiển

Bài liên quan
  • Nghệ An: Dân “khát nước sạch” bên Nhà máy nước gần 26 tỉ bỏ hoang
    Moitruong.net.vn – Dự án cung cấp nước sạch sinh hoạt cho người dân tại xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An được đầu tư tới 25,8 tỉ đồng, khởi công năm 2015 và hoàn thành năm 2018. Nhưng điều đáng nói là sau khi xây dựng xong, công trình lại không thể đi vào hoạt động vì nguyên nhân là do thiếu nguồn nước thô đầu vào.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Xử lý nước thải sinh hoạt đô thị ở Việt Nam – Bài 1: Đối diện nhiều thách thức lớn