Mốc son lịch sử
Ngày 22/12/1944, dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, 34 cán bộ, chiến sĩ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã long trọng tuyên đọc Mười lời thề danh dự
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân do đồng chí Hoàng Sâm được cử làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên. Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân có chi bộ Đảng lãnh đạo. Chỉ có 34 người, với 34 khẩu súng các loại nhưng đó là những chiến sĩ kiên quyết, dũng cảm trong các đội du kích Cao - Bắc - Lạng, Cứu quốc quân,... là con em các tầng lớp nhân dân bị áp bức, họ có lòng yêu nước, chí căm thù địch rất cao, đã siết chặt họ thành một khối vững chắc, không kẻ thù nào phá vỡ nổi. Sau lễ thành lập, đội tổ chức một bữa cơm nhạt không rau, không muối để nêu cao tinh thần gian khổ của các chiến sĩ cách mạng, đội tổ chức “đêm du kích” liên hoan với đồng bào địa phương để thắt chặt tình đoàn kết quân dân.
Thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trong một tháng phải có hoạt động. Trận đầu nhất định phải thắng lợi”, 17 giờ ngày 25/12/1944 (ngay sau ngày thành lập), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập và đồn Phai Khắt (đóng tại tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình, nay thộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) và sáng ngày 26/12/1944 lại đột nhập vào đồn Nà Ngần (đóng tại xã Cẩm Lý, châu Nguyên Bình, nay thộc xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), giết hết hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch và thu tất cả vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống đánh chắc thắng, đánh trận đầu của quân đội ta.
Tháng 3/1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng và ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu Quốc quân và các tổ chức vũ trang khác...) thành Việt Nam Giải phóng quân; đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang phá kho thóc của Nhật để cứu đói cho nhân dân; xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc; phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng. Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, phong trào vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần đã giành thắng lợi ở nhiều nơi. Ngày 15/5/1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Biên Thương, Định Hóa, Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp trở thành Tư lệnh các lực lượng vũ trang thống nhất, mang tên Việt Nam Giải phóng quân.
Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang cùng các tầng lớp nhân dân đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng Tháng tám năm 1945 thành công, Việt Nam Giải phóng quân được đổi tên thành Vệ Quốc quân. Năm 1946, Vệ Quốc quân đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Năm 1950, đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 22/12/1944, ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân – Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
Vang mãi tinh thần "phía trước là nhân dân"
Lịch sử 79 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của quân đội ta gắn liền với lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc. Một đội quân được Đảng và Bác Hồ rèn luyện, đã từng là những đội tự vệ đỏ trong cao trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh, đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ, Ba Tơ, Cao Bắc Lạng, Cứu quốc quân đến Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Một đội quân lớp lớp cán bộ, chiến sĩ đã nối tiếp nhau bao thế hệ cầm súng chiến đấu, cùng toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược hung bạo, giành lại độc lập thống nhất và bảo vệ vững chắc bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em.
Trong thời bình, mặc dù đất nước không còn tiếng súng nhưng với tinh thần “Phía trước là nhân dân”, Bộ đội Cụ Hồ luôn là lực lượng chủ lực trong cuộc chiến chống thiên tai, dịch bệnh... Bất cứ nơi nào, dù xa xôi, khó khăn, dù lũ cuốn, mưa nguồn, núi lở, rừng cháy..., bất chấp hiểm nguy bộ đội vẫn có mặt sớm nhất để cứu hộ cứu nạn, bảo vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân. Nơi đồng bằng, mỗi khi mưa bão ngập đồng, bộ đội lại dầm mình gặt lúa giúp dân. Nơi vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo, bộ đội kéo điện thắp sáng bản làng, bộ đội làm bác sĩ chữa bệnh, bộ đội làm thầy giáo dạy cho con trẻ cái chữ, bộ đội tuyên truyền đường lối, chính sách, pháp luật...
Để có được tinh thần đó, ngay từ buổi đầu thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến xây dựng đội quân chủ lực, từ tổ chức đến phương châm hành động, quan hệ giữa đội quân chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương. Về mặt tổ chức, Người cho rằng: Phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo và coi trọng xây dựng con người với phương châm “Người trước, súng sau”.
Trong xây dựng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Người yêu cầu: Phải có đầy đủ các thành phần dân tộc, vùng miền, người địa phương nào cũng có để nhằm phục vụ cho hoạt động sau này của Đội được thuận lợi. Quá trình thực hiện nhiệm vụ “phải dựa chắc vào dân thì không kẻ địch nào tiêu diệt được ta”. Xây dựng đội quân chủ lực trước hết là về phẩm chất chính trị phải vững chắc, tư tưởng cách mạng đúng đắn, để có thể đảm đương nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, làm cho quần chúng giác ngộ, tin tưởng và đi theo cách mạng. Theo Người, quân sự phải phục tùng chính trị, “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.
Thật khó kể hết những lời dạy của Bác Hồ với quân đội, nhưng dẫu ở thời điểm nào thì Người vẫn nhấn mạnh rằng: “Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phía trước là nhân dân”. Trên tinh thần ấy, quân đội ta đã gắn bó máu thịt với nhân dân qua mấy cuộc kháng chiến. Nhờ tinh thần ấy, dẫu đối mặt với những kẻ thù mạnh hơn nhiều lần, được trang bị vũ khí tối tân hơn nhưng quân đội ta, nhân dân ta vẫn chiến thắng. Những chiến thắng vĩ đại mà quân đội ta giành được không thể tách rời tư tưởng, đường lối chiến tranh của Hồ Chí Minh, hơn thế là việc xây dựng hình tượng “Bộ đội Cụ Hồ” trung với nước, hiếu với dân, vì nhân dân mà chiến đấu.