Mục tiêu của Chính phủ đề ra là đến năm 2030, Việt Nam sẽ chấm dứt đại dịch HIV/AIDS. Chính vì vậy, khi các nguồn viện trợ thuốc ARV điều trị HIV kết thúc năm 2018 thì Việt Nam vẫn phải đảm bảo nguồn lực để thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Hiện cả nước có khoảng 200 nghìn người nhiễm HIV/AIDS, trong đó có gần 140.000 người nhiễm được điều trị bằng thuốc ARV. Trong thời gian vừa qua, Quỹ BHYT chi trả cho điều trị nhiễm trùng cơ hội, các xét nghiệm khác cho người bệnh nhiễm HIV có thẻ BHYT. Việc điều trị HIV/AIDS bằng thuốc ARV chủ yếu dựa vào các nguồn viện trợ quốc tế. Nhưng hiện các nguồn này đã kết thúc vào năm 2018.
Ảnh minh họa
Theo ông Lê Văn Phúc, Trưởng Ban Dược – Vật tư y tế, Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, Việt Nam hiện là nước duy nhất huy động nguồn lực trong nước thông qua BHYT để chi trả cho các dịch vụ điều trị HIV/AIDS. Trong thời gian qua, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Bộ Y tế tháo gỡ từng vướng mắc, tạo điều kiện tối đa để người nhiễm HIV/AIDS tiếp cận với BHYT. Nhờ vậy, số người nhiễm HIV/AIDS có thẻ BHYT tăng theo từng năm. Nhiều tỉnh, thành phố đạt độ bao phủ BHYT cho 100% người nhiễm HIV/AIDS.
Ông Phạm Đức Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho biết, uớc tính đến cuối năm 2019, cả nước sẽ có khoảng 40.000 người có HIV được nhận thuốc ARV qua BHYT và dự kiến tăng lên 106.000 người vào năm 2020.
ARV là loại thuốc kháng vi rút nhằm làm giảm sự sinh sôi của HIV trong cơ thể. Thuốc ARV được Việt Nam sử dụng rộng rãi từ năm 2004, được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đánh giá là giải pháp hiệu quả bảo vệ sức khỏe cho người nhiễm HIV/AIDS, giúp kiểm soát sự bùng phát của đại dịch. Theo báo cáo của chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về AIDS (UNAIDS), điều trị ARV sớm có thể làm giảm 41% mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội và do đó có thể giảm nguy cơ tử vong; giảm 96% nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục và giảm tỉ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 2%. Khi người nhiễm HIV được điều trị bằng ARV có thể phục hồi sức khỏe, tiếp tục sống, học tập và lao động, giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và ngành y tế trong hoạt động điều trị và dự phòng.
Theo ông Lê Văn Phúc, Việt Nam là nước duy nhất huy động nguồn lực trong nước thông qua BHYT để chi trả cho các dịch vụ điều trị HIV/AIDS. Với bệnh nhân HIV/AIDS, điều trị ARV cần liên tục và suốt đời. Nếu không tham gia BHYT, người nhiễm HIV sẽ phải chi trả khoản kinh phí lớn hàng năm. Vì vậy, điều trị ARV thông qua Quỹ BHYT sẽ là nguồn tài chính bền vững để người có HIV tiếp tục được điều trị với chi phí hợp lý.
Thời gian qua, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Bộ Y tế tháo gỡ từng vướng mắc, tạo điều kiện tối đa để người nhiễm HIV/AIDS tiếp cận với BHYT như: Người nhiễm HIV/AIDS không phải tham gia BHYT theo hộ gia đình, giải pháp khắc phục tình trạng thiếu giấy tờ tùy thân, đăng ký khám chữa bệnh ban đầu, chuyển tuyến, chuyển tiếp…
Qua đó, người nhiễm HIV/AIDS có thẻ BHYT tăng theo từng năm, từ 30% năm 2015 lên 90% hiện nay. Nhiều tỉnh thành đã đạt độ bao phủ BHYT 100% cho người nhiễm HIV/AIDS. Tuy nhiên, tại một số tỉnh, thành phố, độ bao phủ BHYT cho đối tượng này còn thấp do tâm lý sợ lộ thông tin của người bị bệnh. Nhiều người nhiễm HIV/AIDS lo bị kỳ thị, phân biệt đối xử nên không muốn cung cấp thông tin để tham gia BHYT. Đặc biệt, một số bệnh nhân tuy có thẻ BHYT nhưng sẵn sàng bỏ tiền túi ra KCB, hoặc đến nơi không được hưởng BHYT để che giấu tình trạng bệnh. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người nhiễm HIV chưa sẵn sàng mua thẻ BHYT do còn trông chờ sự hỗ trợ của Nhà nước hoặc các dự án.
Để người có HIV chủ động hơn trong việc tham gia BHYT, từ đó được bảo đảm tốt nhất việc điều trị bệnh, BHXH Việt Nam đã xây dựng cơ sở dữ liệu bệnh nhân điều trị ARV phục vụ cho việc theo dõi thanh toán thuốc ARV từ nguồn BHYT và thiết lập hệ thống thông tin quản lý đến từng bệnh nhân tham gia điều trị ARV. Bên cạnh đó, BHXH sẽ tiếp tục phối hợp cùng Bộ Y tế tăng cường công tác truyền thông, đặc biệt là truyền thông cho những người nhiễm HIV, người đang điều trị bằng ARV về tầm quan trọng của BHYT. Đồng thời, BHXH sẽ tham mưu xây dựng cơ chế, nguồn tài chính để hỗ trợ người nhiễm HIV tham gia BHYT; chỉ đạo, triển khai chống kỳ thị, phân biệt đối xử tại các cơ sở khám chữa bệnh để người nhiễm HIV yên tâm đến điều trị….
Ông Phúc cho biết, theo tính toán, mỗi năm chi phí KCB cho 1 bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS khoảng 6 triệu đồng (gồm thuốc và xét nghiệm). Để điều trị HIV/AIDS cho gần 140.000 bệnh nhân cần có nhiều giải pháp đồng bộ để đảm bảo nguồn Quỹ BHYT chi trả cho người tham gia BHYT, bao gồm cả người nhiễm HIV. Trong đó cần tập trung tăng cường công tác quản lý để việc sử dụng Quỹ BHYT hiệu quả và tiết kiệm nhất.
Đồng thời, thực hiện tốt việc đấu thầu, mua sắm, quản lý và sử dụng thuốc hiệu quả, đảm bảo an toàn, chất lượng và giá cả phù hợp. Bên cạnh đó, xây dựng lộ trình điều chỉnh mức đóng BHYT phù hợp, tạo thêm các nguồn lực cho KCB BHYT từ các nguồn thuế đối với các mặt hàng như rượu, bia, thuốc lá… được đánh giá là những tác nhân làm gia tăng bệnh tật cho cộng đồng.
Minh Anh (t/h)