Chi trả ERPA tại Nghệ An: Vẫn còn nhiều vướng mắc cần tháo gỡ
Nguồn vốn chi trả giảm phát thải khí nhà kính (ERPA) mang lại nguồn lực quan trọng cho công tác bảo vệ và phát triển rừng tại Nghệ An. Tuy nhiên, quá trình triển khai còn nhiều bất cập, cần sớm điều chỉnh để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiến độ.
Nguồn lực quan trọng cho bảo vệ và phát triển rừng
Nghệ An là một trong 5 tỉnh Bắc Trung Bộ tham gia thí điểm thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính (ERPA) theo Nghị định 107/2022/NĐ-CP. Chương trình do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) ký kết với Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD), nhằm chuyển nhượng 10,3 triệu tấn CO₂ tương đương giai đoạn 2018–2025, với tổng giá trị 51,5 triệu USD.
Tính đến tháng 9/2025, Nghệ An đã tiếp nhận hơn 356 tỷ đồng từ ERPA, trong đó dự kiến giải ngân hơn 324 tỷ đồng vào cuối năm, đạt 91% tổng nguồn thu. Đây được coi là nguồn tài chính đặc biệt quan trọng bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng vốn còn hạn hẹp.

Với diện tích trên 973.000 ha đất có rừng, Nghệ An được đánh giá là tỉnh có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất vùng Bắc Trung Bộ tham gia thí điểm ERPA. Nguồn vốn này giúp tỉnh duy trì độ che phủ rừng, giảm áp lực ngân sách, tạo việc làm và cải thiện sinh kế cho đồng bào miền núi, đồng thời góp phần giữ vững an ninh, trật tự xã hội ở vùng cao.
Nhiều vướng mắc trong triển khai
Dù mang lại tác động tích cực, quá trình thực hiện ERPA tại Nghệ An vẫn còn nhiều bất cập. Một số quy định của Nghị định 107/2022/NĐ-CP chưa rõ ràng, dẫn đến cách hiểu khác nhau giữa các sở, ngành, khiến tiến độ chi trả giai đoạn đầu bị chậm.
Việc xác định nguồn chi trả cũng dễ nhầm lẫn với nguồn tiền cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Ngân sách nhà nước hỗ trợ bảo vệ rừng là chính sách hỗ trợ, trong khi tiền dịch vụ môi trường rừng là khoản chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon. Sự chồng chéo này chưa phản ánh đúng bản chất dịch vụ môi trường rừng.

Hạn chế lớn nhất hiện nay là cơ sở dữ liệu lâm nghiệp thiếu đồng bộ, nhất là số liệu về diễn biến rừng và chủ rừng. Biến động sang nhượng, tranh chấp khiến dữ liệu không trùng khớp, trong khi quy định lại yêu cầu chi trả dựa trên số liệu cập nhật, làm gia tăng nguy cơ sai sót.
Theo Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Nghệ An, số tiền chi trả cho một số cộng đồng quá thấp, có xã chỉ nhận chưa tới 1 triệu đồng/năm, không đủ để mở và duy trì tài khoản ngân hàng nên họ xin không nhận. Thủ tục chi trả qua hai cấp chính quyền cũng phức tạp, phải được HĐND xã phê duyệt kế hoạch tài chính, khiến tiến độ chậm.
Ngoài ra, nguồn kinh phí ERPA còn tồn đọng tại nhiều đơn vị do quy định về đối tượng và nội dung chi chưa linh hoạt, trong khi thời gian triển khai chương trình chỉ kéo dài đến hết năm 2025.
Đề xuất nâng cao hiệu quả
Tại các hội nghị đánh giá, Nghệ An đã kiến nghị Trung ương điều chỉnh một số quy định để tăng hiệu quả sử dụng vốn ERPA. Trong đó, đáng chú ý là đề xuất nâng mức hỗ trợ sinh kế cho cộng đồng từ 50 triệu đồng lên 80–100 triệu đồng/năm, nhằm triển khai những công trình thiết thực hơn.
Tỉnh cũng đề nghị cho phép sử dụng phần kinh phí chưa giải ngân để tiếp tục phục vụ công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời mở rộng đối tượng chi, bổ sung nội dung chi cho hoạt động tuyên truyền, nâng cao năng lực thực thi chính sách.
Việc tháo gỡ vướng mắc và tăng cường tính linh hoạt trong chi trả không chỉ giúp Nghệ An hoàn thành mục tiêu thí điểm ERPA mà còn góp phần duy trì ổn định diện tích rừng, tiến tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.