Dưới những dòng nước “chết”: Khi sông hồ ô nhiễm âm thầm “đầu độc” cuộc sống người dân
Từ những dòng sông từng trong xanh, mát lành, hiện nay, nhiều con sông, hồ tại Việt Nam đang dần trở thành “bể chứa” nước thải sinh hoạt và công nghiệp. Nước đổi màu, cá chết, mùi hôi nồng nặc – những dấu hiệu ô nhiễm đang len lỏi vào từng hơi thở của người dân, mang theo những hệ lụy sức khỏe khó lường.

Sông hồ ngừng “thở”: Khi dòng nước trở thành nỗi ám ảnh
Một buổi sáng tháng 11, tiết trời Hà Nội se lạnh nhưng không khí ven sông Tô Lịch lại nồng nặc mùi hôi của bùn rác và nước thải. Dòng sông vốn được người dân coi là “ký ức của Thủ đô” nay đặc quánh, nước đen ngòm, sủi bọt trắng lềnh bềnh trên mặt. Người qua đường vội vàng bịt mũi, tăng ga chạy nhanh qua, như muốn thoát khỏi thứ mùi ám ảnh ấy.
Ngay sát bờ sông, căn nhà nhỏ của bà Nguyễn Thị Hoa (đường Nguyễn Khang, phường Yên Hòa), đã gắn bó với dòng nước này hơn hai chục năm. Bà đứng trên hiên nhà, chỉ tay về phía con sông đen ngòm, lắc đầu: “Từ ngày tôi chuyển về đây, nước sông lúc nào cũng đen và bốc mùi. Mùa hè còn khủng khiếp hơn, mùi xộc thẳng vào nhà, ăn cơm cũng không ngon. Có hôm gió thổi ngược, cả đêm phải đóng kín cửa mà vẫn không ngủ nổi. Sông ô nhiễm thế này bao nhiêu năm rồi, nói mãi mà vẫn chưa thấy cải thiện.”

Không riêng gì Hà Nội, tại TP.HCM, những dòng kênh từng được cải tạo như Nhiêu Lộc – Thị Nghè cũng đang “vật lộn” để hồi sinh. Dù đã có dự án xử lý nước thải, nhưng mỗi ngày, vẫn có hàng trăm nghìn mét khối nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý chảy thẳng xuống kênh.
Còn ở Đồng Nai, dù sông Thị Vải từng được đầu tư cải tạo, nhưng lớp bùn đáy vẫn chứa kim loại nặng và hợp chất hữu cơ độc hại. Nước trong có thể đã trở lại, nhưng hệ sinh thái dưới lòng sông vẫn chưa hồi phục. Cái chết của những loài thủy sinh ở đây là minh chứng cho sự tổn thương lâu dài mà môi trường phải gánh chịu.
Ở khu vực nông thôn, nguy cơ ô nhiễm cũng ngày càng rõ rệt. Những hồ thủy lợi, ao nuôi cá, kênh nội đồng tại Hưng Yên đang bị “đầu độc” bởi nước thải chăn nuôi và thuốc bảo vệ thực vật. Ông Trần Văn Lợi, nông dân xã Yên Mỹ (tỉnh Hưng Yên), than thở: “Mỗi vụ cấy, tôi phải bơm nước từ sông Bắc Hưng Hải vào ruộng. Nước đen sì, nổi váng. Năm ngoái, cá chết trắng ao, lúa thì còi cọc. Giờ muốn nuôi lại cũng sợ vì không biết nước còn độc không.”
Câu chuyện của ông Lợi không còn là trường hợp riêng lẻ. Dọc sông Bắc Hưng Hải, hàng ngàn hộ dân phải chịu cảnh “sống chung với ô nhiễm”. Mùi hôi bốc lên mỗi khi nước cạn, bọt trắng phủ dày, báo hiệu dòng sông đang mất dần khả năng tự làm sạch – thứ lá chắn sinh thái từng bảo vệ cả vùng đồng bằng trù phú.
Áp lực từ sinh hoạt, sản xuất và quản lý lỏng lẻo
Những dòng nước “chết” không tự nhiên mà có. Theo các chuyên gia, chúng là kết quả của cả một chuỗi nguyên nhân kéo dài qua nhiều năm, từ sản xuất, sinh hoạt đến quản lý.

Bên cạnh đó, các cơ sở công nghiệp, làng nghề vẫn là “điểm đen” ô nhiễm. Một số doanh nghiệp vì lợi nhuận đã lén xả thải vào ban đêm, né tránh chi phí xử lý. Những dòng nước chứa phenol, amoni, kim loại nặng khi hòa vào hệ thống sông ngòi sẽ lưu cữu hàng chục năm, khó có thể phục hồi.
Trong khi đó, ở khu vực nông nghiệp, việc lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu khiến các hợp chất nitrat, phosphat tích tụ, làm nước phú dưỡng, tảo nở hoa dày đặc, gây ra những đợt cá chết hàng loạt mỗi khi thời tiết thay đổi. Nhiều ao hồ, kênh mương ở đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long đã chuyển sang màu xanh lục đậm, đặc quánh - biểu hiện rõ của hiện tượng này.
Theo PGS.TS Bùi Thị An, Đại biểu Quốc hội khóa XIII, Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng, nguyên nhân cốt lõi của tình trạng ô nhiễm nước mặt hiện nay là công tác quản lý xả thải còn lỏng lẻo.

Thêm vào đó, rác thải nhựa và túi nilon bị vứt bừa bãi vẫn hiện diện khắp nơi. Chúng tích tụ ở lòng sông, đáy hồ, cản trở dòng chảy, gây tắc nghẽn hệ thống thoát nước. Mỗi cơn mưa lớn, nước không thoát được, lại mang theo rác thải dâng tràn vào khu dân cư. Đó là vòng luẩn quẩn chưa có lối ra khi ý thức cộng đồng còn thấp và chế tài xử phạt chưa đủ mạnh.
Khi sức khỏe và sinh kế bị đe dọa
Ô nhiễm nguồn nước không chỉ là câu chuyện môi trường. Nó lặng lẽ xâm nhập từng ngóc ngách đời sống người dân, tước đi sức khỏe, sinh kế và cả niềm tin vào môi trường xung quanh.
Tại các vùng ven sông ở miền Bắc, nhiều gia đình phải sống cạnh những dòng sông đã mất khả năng tự làm sạch. Ông Trần Văn Lợi (xã Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) cho biết: “Trước kia chúng tôi dùng nước giếng khoan để sinh hoạt, nhưng giờ nước có mùi tanh, màu vàng nhạt, không dám nấu ăn hay cho trâu bò uống. Cá trong ao chết hết, lúa thì còi cọc, thu nhập của cả gia đình sụt giảm. Mỗi lần mưa lớn là nước sông tràn vào ruộng, ô nhiễm càng nặng hơn.”

Theo thống kê của Bệnh viện Da liễu Trung ương, các khu vực nguồn nước suy giảm chất lượng có tỷ lệ mắc bệnh da liễu cao gấp 1,3–2 lần so với vùng nước sạch. Trẻ em ở những khu vực ven sông miền Bắc và miền Trung mắc bệnh đường ruột và ký sinh trùng cũng cao hơn mức trung bình quốc gia. Nước ô nhiễm không chỉ gây ra bệnh lý ngắn hạn, mà khi phơi nhiễm lâu dài còn tích tụ độc tố trong cơ thể, tăng nguy cơ mắc bệnh gan, thận, rối loạn nội tiết, thậm chí ung thư.
Hệ lụy kinh tế đi kèm không kém phần nặng nề. Sự suy giảm chất lượng nguồn nước khiến nguồn lợi thủy sản bị bào mòn, nhiều hộ dân mất mùa cá hoặc không nuôi được thủy sản theo chu kỳ truyền thống. Các khu vực du lịch sinh thái vốn từng hút khách nhờ cảnh quan sông hồ cũng bị đình trệ, hàng loạt homestay và dịch vụ liên quan phải giảm công suất, hoặc tạm đóng cửa.
Chi phí sinh hoạt tăng cao là gánh nặng trực tiếp lên vai người dân. Nhiều hộ phải mua nước đóng bình với giá gấp nhiều lần so với tiền nước máy. Những bữa cơm hàng ngày, sinh hoạt bình thường cũng trở thành vấn đề kinh tế và sức khỏe. “Chúng tôi không còn cách nào khác, phải mua nước sạch, dù chi phí đắt đỏ. Nhưng dùng nước sông thì không yên tâm, không biết khi nào con cháu lại bị bệnh,” ông Lợi nói, ánh mắt ngậm ngùi, giọng trầm như nặng trĩu cả nỗi lo lâu năm.
Từ góc độ xã hội, ô nhiễm nước đã phá vỡ mối liên kết giữa con người và dòng sông, vốn là nơi nuôi dưỡng đời sống, sinh kế và truyền thống địa phương. Khi sông hồ không còn sạch, không gian công cộng mất đi, niềm tin vào quản lý môi trường suy giảm, và nhiều thế hệ trẻ lớn lên trong môi trường bị ô nhiễm sẽ mang theo hệ quả lâu dài về sức khỏe, thói quen sinh hoạt và ý thức bảo vệ thiên nhiên.
Có thể nói, mỗi dòng sông bị ô nhiễm là một “mất mát kép”: Vừa tước đi sức khỏe, vừa làm suy yếu sinh kế – hai giá trị cơ bản nhất của đời sống người dân. Và nỗi lo này không thể giải quyết bằng các biện pháp tạm thời, mà đòi hỏi hành động đồng bộ, dài hạn và sự tham gia chủ động của cộng đồng.

Cần chiến lược dài hạn, đồng bộ và xã hội hóa
Trước thực trạng ấy, nhiều chuyên gia cho rằng cần một chiến lược dài hạn, đồng bộ và xã hội hóa trong bảo vệ nguồn nước. Việc đầu tư hệ thống quan trắc tự động, xây dựng nhà máy xử lý nước thải tại các đô thị, công khai dữ liệu xả thải của khu công nghiệp là những giải pháp cấp bách.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, cần chuyển đổi sang mô hình canh tác hữu cơ, hạn chế sử dụng hóa chất, kết hợp các biện pháp sinh học như dùng chế phẩm vi sinh, trồng bè thủy sinh để lọc nước. Ở nông thôn, việc áp dụng hầm biogas và men vi sinh xử lý chất thải chăn nuôi có thể giúp giảm đáng kể lượng ô nhiễm chảy xuống kênh mương.
Quan trọng hơn cả, chính người dân phải được xem là chủ thể trong công tác bảo vệ nguồn nước. Khi người dân được trang bị kiến thức, có quyền giám sát và phản biện, thì những hành vi xả thải trái phép mới không còn đất sống.
PGS.TS Bùi Thị An cũng nhấn mạnh: “Để giải quyết vấn đề này cần sự vào cuộc quyết liệt của cơ quan quản lý, doanh nghiệp và chính cộng đồng. Khi người dân được trang bị kiến thức, có quyền giám sát và phản biện, thì những hành vi xả thải trái phép mới không còn đất sống.”
Mỗi dòng sông, hồ là mạch máu nuôi dưỡng con người và tự nhiên. Nhưng khi mạch máu ấy bị ô nhiễm, sự sống cũng đang dần cạn kiệt. Những câu chuyện của bà Hoa, ông Lợi – những người đang hằng ngày “hít thở” cùng ô nhiễm chỉ là lát cắt nhỏ trong bức tranh rộng lớn về môi trường nước ở Việt Nam.
Giữ lại màu xanh cho dòng sông không phải là việc của riêng ai. Đó là trách nhiệm của cả xã hội, của mỗi công dân. Bởi nước sạch là quyền cơ bản của con người, và bảo vệ nguồn nước hôm nay chính là bảo vệ sự sống của ngày mai.




