Rừng phòng hộ - Bài 2: Tồn tại nhiều thách thức, khó khăn trong công tác quản lý

Minh Anh|12/05/2023 07:30

Vấn đề phát triển, bảo vệ rừng phòng hộ được cơ quan chức năng quan tâm nhưng thực tế cho thấy các Ban quản lý và chủ rừng phòng hộ đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức trong việc duy trì hoạt động và quản lý bền vững diện tích rừng được giao.

Thực trạng rừng phòng hộ ở Việt Nam

Rừng phòng hộ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống tự nhiên, đảm bảo an ninh môi trường quốc gia, đồng thời cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho phát triển kinh tế-xã hội địa phương và đời sống cộng đồng sống gần rừng.

rung.jpg
Rừng thông tại Vườn Quốc gia Tà Đùng.

Tuy nhiên, việc quản lý bảo vệ rừng trên thực tế cho thấy các Ban quản lý và chủ rừng phòng hộ đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức trong việc duy trì hoạt động và quản lý bền vững diện tích rừng được giao.

Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách định hướng phát triển nhưng quá trình thực thi còn bộc lộ nhiều bất cập cần giải quyết.

Hiện Việt Nam có hơn 14,6 triệu ha rừng, trong đó rừng phòng hộ chỉ chiếm hơn 4,65 triệu ha. Từ năm 2002 đến 2019, tổng diện tích rừng Việt Nam tuy tăng thuần trên 2,7 triệu ha, nhưng diện tích rừng phòng hộ giảm trên phạm vi toàn quốc.

Kết quả khảo sát của Trung tâm Con người và Thiên nhiên tại 59 Ban quản lý rừng phòng hộ cũng cho thấy, trong giai đoạn từ 1990 đến 2016, các Ban quản lý đã điều chỉnh diện tích rừng phòng hộ 186 lần, trong đó 117 lần điều chỉnh theo hướng giảm, phần lớn diện tích rừng bị chuyển đổi sang rừng sản xuất hoặc thực hiện các dự án thuỷ điện, khoáng sản, bổ sung quỹ đất sản xuất tại địa phương....

Vướng mắc cần tháo gỡ

Theo đánh giá của đại điện Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý rừng phòng hộ vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc.

Trong đó, xu hướng suy thoái đa dạng sinh học do nạn phá rừng, khai thác gỗ bất hợp pháp vẫn còn xảy ra; kinh tế phát triển, dân số tăng cao tạo áp lực về đất ở, đất sản xuất - điều này không tránh khỏi gây ra tình trạng xâm lấn đất rừng. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị đầu tư cho các Ban quản lý rừng còn thiếu và yếu; chính sách đầu tư bảo vệ rừng đối với hệ thống rừng phòng hộ còn một số bất cập chưa tương xứng với mục tiêu và nhiệm vụ…

xam-lan.jpg
Diện tích rừng bị xâm lấn tại xã Ia Đal.

Theo Tiến sỹ Trần Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp Đắk Lắk, hiện Việt Nam chưa có quy hoạch hệ thống rừng phòng hộ (Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 phê duyệt Quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng đến năm 2020, tầm nhìn 2030). Mô hình tổ chức bộ máy quản lý các Ban quản lý rừng phòng hộ cũng chưa thống nhất (đồng thời trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; UBND huyện, Phòng kinh tế UBND huyện; Chi cục kiểm lâm hoặc Hạt kiểm lâm). Nhiều tỉnh phía Bắc và miền Trung chưa thành lập các Ban quản lý rừng phòng hộ ven biển. Cùng với đó là sự hạn chế về số lượng cũng như sự đãi ngộ đối với nguồn nhân lực của các Ban quản lý rừng, đối với việc tổ chức triển khai các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học (ranh giới rừng).

Hơn nữa, các nghiên cứu khoa học và áp dụng tiến bộ kỹ thuật còn ít; thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học, cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá về chất lượng rừng, tính đa dạng của hệ sinh thái rừng. Đồng thời, sự tích cực, chủ động của các Ban quản lý rừng phòng hộ và cộng đồng dân cư chưa được phát huy hiệu quả trong việc bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học.

Điều đặc biệt hạn chế là nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước để thực hiện các chính sách đầu tư, bảo vệ và phát triển rừng. Cụ thể, 70% các Ban quản lý rừng phòng hộ có khó khăn trong thu hút các nguồn lực tài chính xã hội hóa, Ngân sách nhà nước vẫn là nguồn chủ yếu trong đầu tư bảo vệ và phát triển rừng.

Theo Tiến sỹ Trần Ngọc Thanh, nguyên nhân là do nhận thức về vị trí, vai trò của cộng đồng dân cư đối với công tác bảo vệ và phát triển rừng từ phía các cấp, các ngành chưa đầy đủ. Nhận thức về giá trị đa dạng sinh học của hệ sinh thái rừng đối với công cuộc phát triển bền vững đất nước của các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng dân cư còn hạn chế.

Cơ chế quản lý tài chính theo kiểu bao cấp vẫn ảnh hưởng nặng nề trong tư duy, nhận thức của hệ thống quản lý rừng, nhất là các Ban quản lý rừng phòng hộ. Vẫn đang thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các cấp ở Trung ương, địa phương trong chỉ đạo, điều hành, lồng ghép thực hiện các chính sách đầu tư bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, tổ chức triển khai cơ chế tự chủ tài chính tại các Ban quản lý rừng phòng hộ. Các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách còn thiếu, chưa thống nhất.

Các tính chất đặc thù của hệ thống rừng phòng hộ (vị trí, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,..) chưa được phản ánh đầy đủ trong các cơ chế, chính sách đầu tư bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Rừng phòng hộ - Bài 2: Tồn tại nhiều thách thức, khó khăn trong công tác quản lý