Tiềm năng và cơ hội chuyển đổi xanh tại khu vực Bắc Trung Bộ
Đối với khu vực Bắc Trung Bộ, chuyển đổi xanh không chỉ là giải pháp để ứng phó với các thách thức về môi trường, mà còn là cơ hội để nâng cao chất lượng sống, phát triển kinh tế bền vững và tạo ra những giá trị mới.
.png)
Nhiều tiềm năng và lợi thế
Điều kiện tự nhiên thuận lợi
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang tác động mạnh mẽ đến môi trường và kinh tế toàn cầu, chuyển đổi xanh không còn là một xu hướng, mà là một yêu cầu cấp thiết đối với mọi quốc gia và khu vực. Khu vực Bắc Trung Bộ, bao gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thành phố Huế, sở hữu một loạt các điều kiện tự nhiên thuận lợi, là nền tảng vững chắc cho quá trình chuyển đổi xanh và phát triển kinh tế bền vững.

Một trong những đặc điểm nổi bật của khu vực này chính là hệ thống bờ biển kéo dài hơn 1.000 km. Địa hình ven biển không chỉ mang lại lợi thế trong việc phát triển nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, mà còn tạo ra những cơ hội lớn trong việc phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời.
Với điều kiện gió mạnh và ổn định quanh năm, các tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ có tiềm năng rất lớn trong việc phát triển điện gió. Đặc biệt là các khu vực ven biển của tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị có tốc độ gió cao, là những điểm lý tưởng để xây dựng các trang trại điện gió. Đây là nguồn năng lượng tái tạo sạch, không phát thải khí nhà kính, giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và góp phần vào việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
.png)
Ngoài điện gió, khu vực Bắc Trung Bộ cũng có nhiều tiềm năng phát triển điện mặt trời nhờ vào điều kiện ánh sáng mặt trời dồi dào và ít mưa. Với diện tích đất rộng và những khu vực có nhiều nắng, các tỉnh như Nghệ An, Quảng Bình có thể tận dụng tài nguyên này để xây dựng các nhà máy điện mặt trời, cung cấp năng lượng không chỉ cho khu vực mà còn phục vụ cho các khu công nghiệp, đô thị và khu vực nông thôn. Việc đầu tư vào điện mặt trời không chỉ giúp giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch mà còn góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Không những vậy, khu vực Bắc Trung Bộ còn sở hữu một hệ sinh thái rừng vô cùng phong phú và đa dạng, đặc biệt là rừng nguyên sinh và rừng phòng hộ. Các khu rừng ở đây có giá trị rất cao trong việc duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ đất, phòng chống lũ lụt và xói mòn đất. Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng tự nhiên tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thành phố Huế không chỉ có giá trị bảo vệ môi trường mà còn chứa đựng các nguồn tài nguyên quý báu, góp phần vào công tác bảo tồn và phát triển bền vững.
Hệ thống rừng này cũng là nơi sinh sống của nhiều loài động thực vật quý hiếm, giúp Bắc Trung Bộ trở thành một điểm đến tiềm năng cho du lịch sinh thái. Du lịch sinh thái không chỉ giúp phát triển kinh tế mà còn nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, phát huy giá trị của thiên nhiên. Các khu bảo tồn thiên nhiên như Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Vườn quốc gia Bạch Mã,... đều là những điểm sáng về du lịch sinh thái, thu hút hàng triệu lượt du khách trong và ngoài nước mỗi năm.

Bên cạnh đó, việc bảo vệ và phát triển bền vững các khu rừng này còn góp phần quan trọng vào việc giảm thiểu biến đổi khí hậu. Những khu rừng nguyên sinh tại Bắc Trung Bộ có khả năng hấp thụ và lưu trữ lượng carbon lớn, giúp điều hòa khí hậu, ổn định môi trường sống. Nếu được bảo vệ và khai thác một cách hợp lý, tài nguyên rừng không chỉ giúp nâng cao chất lượng môi trường mà còn tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các cộng đồng dân cư địa phương thông qua việc phát triển nông lâm kết hợp với du lịch và các dịch vụ sinh thái.
Chính sách và sự quan tâm của Chính phủ
Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã không ngừng thể hiện sự quan tâm sâu sắc đối với các vấn đề môi trường và phát triển bền vững. Chính sách phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đã được đề ra trong các chiến lược, kế hoạch dài hạn của đất nước, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp và cộng đồng áp dụng các mô hình sản xuất và tiêu dùng xanh, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường và tài nguyên thiên nhiên.

Ngày 25/9/2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Chính phủ Việt Nam khẳng định: “Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”. Mục tiêu chung được Chính phủ đặt ra là “Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế biển vững: giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dân trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội”. Trong đó, có ba nhiệm vụ chiến lược được để ra: Thứ nhất, giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo: Thứ hai, xanh hóa sản xuất: Thứ ba, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh là cơ sở pháp lý quan trọng. Như vậy, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh là một nội dung quan trọng trong đường hướng phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định, phát triển nhanh và bền vững và phát triển kinh tế xanh: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên: lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu: kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái: xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.

Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, ngày 11/1/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 76/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình hành động quốc gia về sản xuất, tiêu dùng bền vững đến năm 2020” (SCP), với các nội dung triển khai nhằm hỗ trợ các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp áp dụng các mô hình quản lý, kinh doanh, sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên.

Để các doanh nghiệp sớm tiếp cận xây dựng phương thức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo mô hình KTTH, một số chính sách đã được ban hành như Thông tư số 34/2017/TT-BTNMT ngày 04/10/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ.
Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 280/QĐ-TTg ngày 13/3/2019 phê duyệt “Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030”. Quyết định trên đã nêu mục tiêu tổng quát: “Hình thành thói quen sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong mọi hoạt động của xã hội; giảm cường độ năng lượng trong các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế; tiết kiệm năng lượng trở thành hoạt động thường xuyên đối với các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm và các ngành kinh tế trọng điểm tiêu thụ nhiều năng lượng; hướng tới mục tiêu TTX và phát triển bền vững”.
Ngày ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, nhìn 2050 cũng đặt ra mục tiêu tổng quát là tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội: hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.
Chiến lược đặt ra mục tiêu xanh hóa các ngành kinh tế, trong đó nhân mạnh việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn thông qua khai thác và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và năng lượng dựa trên nền tảng khoa học và công nghệ ứng dụng công nghệ số và chuyện giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
.png)
Theo đó, mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP: phần đầu đến năm 2030, cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 15% so với năm 2014: đến năm 2050, cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP giảm ít nhất 30% so với năm 2014.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định nội dung cốt lõi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2021-2030 là thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và chuyển đổi xanh các ngành, lĩnh vực, trong đó nhân mạnh “Xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế: thực hiện chuyển đổi số toàn điện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường trong nước. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các ngành có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao: chuyển đổi các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên, năng lượng sáng các ngành công nghiệp xanh. công nghiệp phát thải carbon thấp”.
Tại Phiên toàn thể Diễn đàn cấp cao và Triển lãm về Công nghiệp 4.0 năm 2023 vào ngày 14/6/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh, Đảng, Nhà nước Việt Nam rất coi trọng, xem chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững là những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính phủ Việt Nam cam kết sẽ tích cực đồng hành và hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế đề thúc đầy mạnh mẽ chuyên đôi số, tăng cường tăng trưởng xanh, cùng thúc đây mạnh mẽ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm mang lại hòa bình, thịnh vượng chung cho các dân tộc trên thế giới.
Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26). Việt Nam cam kết sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của chính mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế để phấn đầu đạt mức phát thải ròng bằng “0 vào năm 2050.
Có thể thấy rõ, chính sách của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi xanh đã rất rõ ràng, lộ trình bài bản và quyết tâm mạnh mẽ. Tuy nhiên các yếu tố như thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng khốc liệt, phức tạp và khó lường, thiếu hụt về tài nguyên, năng lượng, trình độ phát triển khoa học và công nghệ còn thấp: sự phát triển của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế có nhiều khó khăn sau đại dịch Covid 19... cũng là thách thức không nhỏ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và thực hiện cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0 vào năm 2050.
Tiềm năng phát triển kinh tế xanh
Với điều kiện khí hậu, địa lý thuận lợi, cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, khu vực Bắc Trung Bộ đang có những cơ hội vàng để chuyển mình từ mô hình phát triển truyền thống sang mô hình phát triển bền vững, xanh hóa nền kinh tế thông qua các lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ, công nghiệp sạch, du lịch bền vững, và năng lượng tái tạo. Các ngành này không chỉ giúp nâng cao giá trị sản phẩm, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân cư và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.

Trước tiên, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp công nghệ cao là hai hướng đi tiềm năng giúp khu vực Bắc Trung Bộ không chỉ cải thiện năng suất mà còn nâng cao giá trị sản phẩm nông sản, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiêu thụ trong nước và hiện đã xuất khẩu đi 180 nước trên thế giới, trong đó có Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật, Đức, Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia... là những thị trường tiêu thụ nông sản hữu cơ lớn nhất trên thế giới.
Nông nghiệp hữu cơ đang trở thành một xu hướng quan trọng trong bối cảnh nhu cầu về thực phẩm sạch, an toàn đang gia tăng mạnh mẽ tại Việt Nam và trên thế giới. Khu vực Bắc Trung Bộ, với diện tích đất nông nghiệp rộng lớn và điều kiện khí hậu thuận lợi, có thể phát triển các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ chất lượng cao, bao gồm rau củ quả, gạo sạch, hoa quả nhiệt đới, thảo dược… Các tỉnh như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã bắt đầu triển khai mô hình nông nghiệp hữu cơ, với sự hỗ trợ của các chính sách của Chính phủ về giảm thuế, hỗ trợ vay vốn ưu đãi.
.png)
Các dự án nông nghiệp công nghệ cao, sử dụng các công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học, và hệ thống tưới tiêu tiết kiệm nước, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất nông sản, giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh, đồng thời bảo vệ môi trường.
Các mô hình nông nghiệp công nghệ cao đã được triển khai tại các tỉnh như Nghệ An, Quảng Bình, giúp sản xuất nông sản sạch và tăng trưởng bền vững. Mô hình này cũng góp phần tạo ra sản phẩm nông sản đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
.png)
Trong đó, Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn ở vùng Bắc Trung bộ, với hơn 1,4 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp, gần 70% dân số gắn bó với nông nghiệp, do đó ngành nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Bên cạnh hỗ trợ nông dân chủ động trong sản xuất, khắc phục được tính mùa vụ, giảm sự lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu, đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng nông sản, thì việc từng bước áp dụng, nhân rộng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp sẽ là giải pháp tốt nhất cho ngành nông nghiệp tỉnh Nghệ An, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Với tiềm năng to lớn trong phát triển nông nghiệp, Nghệ An đã từng bước hình thành một số sản phẩm ứng dụng công nghệ cao, như bò sữa, nuôi tôm, một số cây công nghiệp và cây ăn quả tại các huyện có tiềm năng vùng trung du và các huyện miền Tây Nghệ An. Khu vực miền Tây Nghệ An, với độ che phủ rừng lớn, có nhiều tiềm năng về khai thác, chế biến gỗ, dược liệu dưới tán rừng...
.png)
Tại tỉnh Hà Tĩnh, trong thời gian qua, ngành nông nghiệp tỉnh đã chủ động lồng ghép các chính sách, chương trình để xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp áp dụng quy trình thực hành sản xuất tốt, đảm bảo an toàn thực phẩm. Tỉnh cũng đang triển khai Đề án Nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn giai đoạn 2023 - 2030 là phát triển nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường. Theo đó, mục tiêu tổng quát của đề án là phát triển nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái, góp phần ổn định đời sống cho người dân trên địa bàn tỉnh gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn và tái cơ cấu toàn diện ngành nông nghiệp. Nâng cao năng lực, khả năng tổ chức sản xuất, sức cạnh tranh trong chế biến, tiêu thụ của tỉnh. Phát triển sản xuất và chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ cho các loại cây trồng có thế mạnh của tỉnh nhằm tạo ra sản phẩm nông nghiệp an toàn.
.png)
Trong những năm qua, tỉnh Quảng Bình chú trọng chuyển giao công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhờ đó, năng suất, chất lượng sản phẩm tăng lên, hiệu quả kinh tế mang lại rõ nét, góp phần thay đổi diện mạo cho ngành nông nghiệp của tỉnh. Để phát triển sản xuất nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn Sở Nông Nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo xây dựng nhiều mô hình, dự án chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản theo hướng hữu cơ, kinh tế tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cao…. Bước đầu các mô hình đã mang lại hiệu quả tích cực cho người dân, tạo ra sản phẩm sạch an toàn, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường sinh thái vùng nông thôn, điển hình như: Mô hình sản xuất lúa chất lượng cao theo hướng hữu cơ, gắn với xây dựng nhãn mác bao tiêu sản phẩm; mô hình thâm canh cam, bưởi, mít ruột đỏ theo hướng hữu cơ gắn với xây dựng nhãn mác, tem truy xuất nguồn gốc; mô hình trồng rau quả trong nhà màng… Lĩnh vực chăn nuôi đã xây dựng mô hình chăn nuôi lợn theo hướng hữu cơ; mô hình chăn nuôi bò theo hướng kinh tế tuần hoàn... Lĩnh vực thủy sản phải kể đến đó là mô hình nuôi tôm, cá kết hợp trồng lúa, sen; mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao…
Nông nghiệp hữu cơ và công nghệ cao không chỉ giúp tăng trưởng bền vững mà còn góp phần vào việc cải thiện môi trường, giảm thiểu ô nhiễm đất và nước, và nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản của khu vực Bắc Trung Bộ.
Thứ hai, về năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời, có tiềm năng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của khu vực Bắc Trung Bộ trong tương lai gần. Bởi khu vực này có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và điện mặt trời.
Điện gió ngoài khơi là một trong những nguồn năng lượng tái tạo đầy tiềm năng, với tốc độ gió mạnh và ổn định quanh năm ở các tỉnh ven biển như Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị.
Tại tỉnh Quảng Bình, dự án cụm trang trại điện gió B&T hay thường gọi là cánh đồng điện gió Quảng Bình được khởi công từ tháng 9/2020. Sau gần 400 ngày triển khai với sự hỗ trợ và trực tiếp triển khai của 11 nhà thầu trong nước và nước ngoài, đội ngũ chuyên gia đến từ 25 nước trên thế giới, đến ngày 31/10/2021 cánh đồng điện gió đã hoàn thành và đưa vào vận hành sản xuất điện. Với mục tiêu giảm phát thải nhà kính và hạn chế sử dụng năng lượng hóa thạch, cánh đồng điện gió với các cánh quạt khổng lồ sử dụng năng lượng gió, thân thiện môi trường để sản xuất điện sẽ mang lại nguồn năng lượng sạch góp phần tăng thu ngân sách cho địa phương vừa tạo thêm điểm nhấn về tham quan, checkin cho giới trẻ. Đây là cánh đồng điện gió trên bờ lớn nhất tại Việt Nam đến thời điểm hiện tại. Cánh đồng điện gió Quảng Bình có tổng mức đầu tư hơn 8200 tỷ, gồm có 60 tuabin, mỗi trụ có chiều cao 145m, đường kính cánh quạt dài 150m, công suất 4,2MW/ trụ. Mỗi năm Cánh đồng điện gió sẽ sản xuất được 648 triệu kWh điện năng lượng sạch (tương đương khoảng 60% lượng điện tiêu thụ của toàn tỉnh Quảng Bình, góp phần giảm khoảng 58000 tấn CO2 mỗi năm).
.png)
Vùng núi phía Tây ở tỉnh Quảng Trị cũng đang trong quá trình trở thành “thủ phủ” điện gió của khu vực Bắc miền Trung. Điện gió không chỉ là năng lượng sạch mà còn tạo ra nguồn “năng lượng tích cực” trong tư duy đầu tư phát triển kinh tế ở một vùng đất có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nhưng cũng dồi dào tiềm năng như Quảng Trị. Hiện nay, dưới “cánh đồng” điện gió là các điểm du lịch cộng đồng được mở ra, là cây cối được tái tạo, gieo trồng, tạo việc làm và sinh kế bền vững cho người dân.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhiều tỉnh trong khu vực Bắc Trung Bộ có thể phát triển các dự án điện gió quy mô lớn, không chỉ đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước mà còn có thể xuất khẩu điện ra các nước trong khu vực. Việc phát triển điện gió ngoài khơi cũng sẽ giúp giảm thiểu tác động của việc sử dụng năng lượng hóa thạch và góp phần bảo vệ môi trường.
Phát triển năng lượng tái tạo không chỉ giúp đảm bảo nguồn cung năng lượng bền vững mà còn đóng góp vào mục tiêu giảm thiểu phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xanh.
Điện mặt trời cũng là một lĩnh vực có tiềm năng rất lớn tại khu vực Bắc Trung Bộ. Với bức xạ mặt trời cao, các tỉnh như Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị có thể phát triển các nhà máy điện mặt trời quy mô lớn, cung cấp năng lượng cho khu vực và các ngành công nghiệp. Chính phủ đã đưa ra các chính sách ưu đãi thuế và hỗ trợ tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư và doanh nghiệp triển khai các dự án điện mặt trời.
Công nghiệp sạch cũng là một trong những lĩnh vực quan trọng giúp các tỉnh Bắc Trung Bộ phát triển nền kinh tế xanh và bền vững. Các khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp phát thải thấp đang là hướng đi chiến lược trong việc thu hút đầu tư và tạo ra môi trường sản xuất thân thiện với thiên nhiên.

Với lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, khu vực Bắc Trung Bộ có thể phát triển các khu công nghiệp sinh thái hoặc khu công nghiệp sử dụng công nghệ sạch, hạn chế tối đa việc phát thải khí nhà kính và chất thải độc hại ra môi trường. Những khu công nghiệp này thường sẽ sử dụng công nghệ tiên tiến để tái chế, tái sử dụng nước và chất thải, đồng thời giảm thiểu các chất thải rắn, bảo vệ đất đai và không khí.
Các khu công nghiệp phát thải thấp sẽ giúp giảm thiểu ô nhiễm không khí, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và tạo ra một mô hình phát triển công nghiệp bền vững. Chính phủ đã đưa ra các chính sách ưu đãi thuế và tài chính cho các dự án đầu tư vào công nghiệp sạch, đặc biệt là trong các lĩnh vực như sản xuất điện từ năng lượng tái tạo, sản xuất vật liệu xây dựng xanh, và sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Khu vực Bắc Trung Bộ, với các tỉnh như Hà Tĩnh, Quảng Bình, có thể thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp sinh thái, nhờ vào ưu thế về đất đai rộng lớn và hệ thống hạ tầng giao thông thuận tiện. Việc phát triển công nghiệp sạch không chỉ giúp bảo vệ môi trường mà còn tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương.
Bên cạnh đó, du lịch bền vững là một trong những hướng phát triển quan trọng của các tỉnh Bắc Trung Bộ. Khu vực này sở hữu nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc, từ các di sản văn hóa, lịch sử đến các tài nguyên thiên nhiên phong phú hay các khu di tích lịch sử nổi tiếng tại Thành phố Huế.
Nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, 3 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh kết nối với nhau qua Quốc lộ 1A, đường ven biển quốc gia, đường Hồ Chí Minh, đường sắt quốc gia và đường biển. Ở lĩnh vực di tích lịch sử gắn với phát triển du lịch, dải đất Bắc Trung bộ đã và đang có sự gắn kết giữa các điểm đến của cả 3 tỉnh, như các điểm du lịch thành nhà Hồ, khu di tích lịch sử Lam Kinh (Thanh Hóa), với các địa điểm như khu di tích Kim Liên, khu di tích lịch sử quốc gia Truông Bồn (Nghệ An); khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du, khu di tích lịch ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh)... Ngoài ra, thiên nhiên vùng đất Bắc Trung Bộ còn có nhiều hang động, thác nước, bãi biển đẹp, như: bãi biển Sầm Sơn, Hải Tiến, Hải Hòa (Thanh Hóa); Quỳnh Nghĩa, Cửa Hội, Cửa Lò (Nghệ An); Thiên Cầm, Xuân Thành, Lộc Hà (Hà Tĩnh).
.png)
Du lịch cộng đồng khu vực Bắc Trung bộ gắn với các địa điểm đã khẳng định được thương hiệu, mang đến cho du khách những trải nghiệm khó quên, như các khu du lịch sinh thái cộng đồng Pù Luông, bản Mạ, thác Ma Hao (Thanh Hóa); bản Nưa, bản Xiềng, Cọ Muồng, Hoa Tiến (Nghệ An); Vườn quốc gia Vũ Quang, khu sinh thái khoáng nóng Sơn Kim, hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh). Đồng thời, hệ thống ẩm thực độc đáo, hấp dẫn của đồng bào dân tộc trong các khu du lịch cộng đồng cũng là yếu tố đang hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn liền với việc bảo tồn thiên nhiên sẽ giúp không chỉ tạo ra nguồn thu nhập bền vững cho người dân mà còn góp phần bảo vệ các hệ sinh thái quan trọng.
Các mô hình du lịch cộng đồng, nơi người dân địa phương tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch và bảo vệ môi trường, cũng đang được triển khai mạnh tại các khu vực như Quảng Bình, Quảng Trị, Thành phố Huế. Những mô hình này giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của bảo vệ thiên nhiên và giảm thiểu tác động của hoạt động du lịch đến môi trường. Phát triển du lịch sinh thái tại các khu vực này còn giúp phát triển các sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc văn hóa địa phương, từ các làng nghề truyền thống đến các hoạt động trải nghiệm thiên nhiên. Đây là một chiến lược hiệu quả để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, vừa bảo vệ môi trường, vừa tạo ra giá trị kinh tế bền vững cho khu vực.
Cơ hội thúc đẩy
chuyển đổi xanh
Sự thay đổi trong cách thức phát triển kinh tế, với việc áp dụng các mô hình kinh tế bền vững, thân thiện với môi trường, đã và đang mở ra một tương lai tươi sáng cho các tỉnh trong khu vực Bắc Trung Bộ. Những cơ hội này đến từ hai yếu tố quan trọng: hội nhập kinh tế và các cam kết quốc tế, cùng với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ chuyển đổi số và sự quan tâm của các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Khả năng tiếp cận nguồn vốn xanh và
công nghệ xanh
Một trong những cơ hội quan trọng mà hội nhập kinh tế mang lại là khả năng tiếp cận nguồn vốn xanh và công nghệ xanh từ các tổ chức quốc tế. Với những cam kết về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của các tổ chức tài chính quốc tế, quỹ đầu tư xanh, và các nhà tài trợ quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp ở Bắc Trung Bộ, nơi đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và cần có nguồn vốn để đầu tư vào các dự án thân thiện với môi trường.
.png)
Các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), hay Quỹ khí hậu toàn cầu (GCF) đang cung cấp các khoản vay ưu đãi, tài trợ và hỗ trợ kỹ thuật cho các dự án phát triển năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, công nghiệp sạch, và các ngành kinh tế xanh khác. Các doanh nghiệp ở khu vực Bắc Trung Bộ có thể tiếp cận các nguồn vốn này để triển khai các dự án xanh, giúp tạo ra giá trị bền vững và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.
.png)
Ngoài ra, việc chuyển giao công nghệ xanh cũng là một cơ hội lớn cho khu vực này. Các công nghệ tiên tiến trong sản xuất năng lượng tái tạo, xử lý chất thải, sử dụng tài nguyên hiệu quả sẽ giúp các doanh nghiệp Bắc Trung Bộ nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm thiểu chi phí sản xuất và bảo vệ môi trường. Chính phủ Việt Nam cũng đang đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ chuyển giao công nghệ từ các quốc gia phát triển, giúp các doanh nghiệp trong khu vực nhanh chóng áp dụng công nghệ xanh trong sản xuất và kinh doanh.
Xu hướng tiêu dùng xanh đang gia tăng mạnh mẽ trên toàn cầu, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường, và sẵn sàng trả thêm chi phí cho những sản phẩm có nguồn gốc hữu cơ, không gây hại cho sức khỏe và môi trường. Đây là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp ở Bắc Trung Bộ, đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ, du lịch sinh thái, và sản xuất sạch.
Khu vực Bắc Trung Bộ có thể tận dụng xu hướng này để phát triển các sản phẩm nông sản sạch, hữu cơ, và các dịch vụ du lịch sinh thái. Các tỉnh trong khu vực như Nghệ An, Quảng Bình, Thành phố Huế đang bắt đầu xây dựng thương hiệu sản phẩm nông sản sạch, đặc sản của vùng, đồng thời phát triển các mô hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn liền với bảo tồn thiên nhiên. Những sản phẩm này không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có cơ hội xuất khẩu ra thế giới, đặc biệt là vào các thị trường khó tính như châu Âu và Bắc Mỹ.
Chuyển đổi sang sản xuất và tiêu dùng xanh không chỉ giúp các doanh nghiệp khu vực Bắc Trung Bộ mở rộng thị trường mà còn đóng góp vào việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, giảm ô nhiễm và phát thải, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế bền vững cho khu vực.
Chuyển đổi số hỗ trợ phát triển bền vững
Bên cạnh đó, chuyển đổi số không chỉ là một yếu tố quan trọng trong việc cải thiện năng suất lao động và hiệu quả sản xuất mà còn là một công cụ hữu ích trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xanh và bền vững.
Việc áp dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất xanh, quản lý tài nguyên hiệu quả sẽ giúp các tỉnh khu vực Bắc Trung Bộ hiện thực hóa những mục tiêu phát triển bền vững của mình.
Công nghệ 4.0, bao gồm trí tuệ nhân tạo (AI), Internet of Things (IoT), big data, và các công nghệ tiên tiến khác, có thể được ứng dụng rộng rãi trong việc phát triển các mô hình sản xuất xanh tại Bắc Trung Bộ. Các công nghệ này sẽ giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, giảm thiểu lượng năng lượng tiêu thụ và giảm phát thải trong sản xuất.
.png)
Ví dụ, trong nông nghiệp, công nghệ IoT có thể giúp theo dõi và điều chỉnh các yếu tố môi trường như độ ẩm, nhiệt độ và ánh sáng, giúp tăng năng suất và giảm lãng phí tài nguyên. Các hệ thống tưới tiêu thông minh, sử dụng cảm biến và dữ liệu lớn, sẽ giúp tiết kiệm nước và tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên đất. Ngoài ra, công nghệ AI và big data cũng có thể hỗ trợ trong việc dự báo nhu cầu thị trường, quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả, giúp giảm lãng phí sản phẩm và tiết kiệm chi phí.
Trong công nghiệp sạch, công nghệ 4.0 có thể giúp các doanh nghiệp giám sát, kiểm soát và tối ưu hóa quy trình sản xuất để giảm thiểu chất thải và tiết kiệm năng lượng. Các hệ thống quản lý năng lượng thông minh, dựa trên công nghệ AI và big data, sẽ giúp các nhà máy, khu công nghiệp giảm tiêu thụ năng lượng, giảm phát thải và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Sự quan tâm của doanh nghiệp và nhà đầu tư
Sự quan tâm của doanh nghiệp và nhà đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo và kinh tế tuần hoàn là một yếu tố quan trọng giúp các tỉnh Bắc Trung Bộ thúc đẩy chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế xanh.
Các tập đoàn lớn trong và ngoài nước đang chú trọng đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió và điện mặt trời. Những dự án này không chỉ mang lại nguồn năng lượng bền vững mà còn tạo ra cơ hội việc làm, thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ như sản xuất thiết bị năng lượng tái tạo, bảo trì và vận hành.
.png)
Ngoài ra, kinh tế tuần hoàn cũng đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư. Các dự án tái chế chất thải, sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả và giảm thiểu lãng phí đang trở thành xu hướng trong khu vực Bắc Trung Bộ. Các doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể tham gia vào các mô hình kinh tế tuần hoàn để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời tạo ra giá trị kinh tế bền vững.
Như vậy, có thể thấy, các tỉnh Bắc Trung Bộ đang đứng trước những cơ hội lớn để thúc đẩy chuyển đổi xanh, với sự hỗ trợ từ hội nhập kinh tế, các cam kết quốc tế, chuyển đổi số và sự quan tâm của các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Những yếu tố này sẽ giúp khu vực không chỉ phát triển bền vững mà còn trở thành hình mẫu về nền kinh tế xanh tại Việt Nam.
Với các chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn, khu vực Bắc Trung Bộ có thể khai thác tối đa tiềm năng của mình, tạo ra những cơ hội mới cho doanh nghiệp, cộng đồng và cả nền kinh tế quốc gia.