Chủ trì: Nhà báo Khánh Toàn – Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống
Khách mời tham dự buổi tọa đàm:
Ông Nguyễn Văn Vẻ - Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam
GS.TS Trần Đức Hạ - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu cấp thoát nước và môi trường – Hội Cấp thoát nước Việt Nam
Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Trưởng phòng Quản lý vận hành và tưới tiêu, Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Ông Cao Văn Quý - Phó Tổng Giám đốc Thường trực Công ty Cổ phần Cấp nước Hải Phòng
Buổi tọa đàm còn có mặt của các PV, BTV Tạp chí Môi trường và Cuộc sống và các PV của các báo đài đến dự và đưa tin về tọa đàm.
Tọa đàm được tường thuật trực tiếp trên Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống – Moitruong.net.vn và tại fanpage của Tạp chí Môi trường và Cuộc sống – Moitruong.net.vn trên mạng xã hội Facebook (https://www.facebook.com/moitr...)
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Nhà báo Khánh Toàn – Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống chia sẻ, việc đáp ứng nhu cầu về nước đảm bảo cả về chất lượng và số lượng là một điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững. Nhu cầu nước ngày càng tăng, chủ yếu do sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế bên cạnh đó nguồn nước còn chịu tác động của BĐKH.
Việt Nam dự báo đến năm 2030 nhu cầu nước khoảng 122 tỷ m3/năm, tăng 1,5 lần so với hiện nay, tình trạng thiếu nước diễn ra nghiêm trọng nếu không được kiểm soát.
Việt Nam là đất nước có nguồn nước mặt dồi dào với khoảng 3450 sông, suối dài trên 10 km và hàng nghìn hồ, ao, đất ngập nước, hiện đang đứng trước nguy cơ ô nhiễm trầm trọng. Các nguồn gây ô nhiễm bao gồm các nguồn ô nhiễm điểm như nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp chưa được xử lý, và các nguồn ô nhiễm diện từ rác thải, các dư chất có nguồn nitơ và phốt pho. Rác thải sinh hoạt không được thu gom và xử lý đúng cách là một trong những nguồn gây ô nhiễm nước lớn nhất.
Bài học trên thế giới đã chỉ ra, sự tham gia có ý nghĩa từ công chúng, cộng đồng, doanh nghiệp, nhà khoa học và các bên liên quan khác là điều kiện quyết định trong việc giảm thiểu, kiểm soát ô nhiễm nước.
Chính vì thế năm 2023, Thúc đẩy sự thay đổi là chủ đề chính thức của Ngày Nước Thế giới với mục đích kêu gọi tất cả mọi người cùng hành động để thay đổi cách sử dụng, khai thác, tiêu thụ, và quản lý nguồn nước trong cuộc sống của mình.
Trước thông điệp ý nghĩa và quan trọng đó, hôm nay, Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống tổ chức tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Ngày nước Thế giới năm 2023: Thúc đẩy sự thay đổi”.
Trên cơ sở đó, đề xuất kiến nghị các giải pháp tổng thể, thống nhất hướng đến những hành động thiết thực vì sự thay đổi nhanh chóng là cần thiết và mọi người đều có thể đóng vai trò quan trọng. Mỗi hành động - dù nhỏ đến đâu - sẽ tạo nên sự khác biệt.
Thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước ở Việt Nam
Ở Việt Nam dự báo đến năm 2030 nhu cầu nước khoảng 122 tỷ m3/năm, tăng 1,5 lần so với hiện nay, an ninh nguồn nước đứng trước nhiều thách thức dẫn đến tình trạng thiếu nước diễn ra nghiêm trọng nếu không được kiểm soát. Vì vậy, trên thực tế việc đảm bảo cấp nước đáp ứng về chất lượng cho toàn bộ dân số và bảo tồn các hệ sinh thái vẫn còn là 1 khoảng cách và ảnh hưởng đến quá trình phát triển bền vững đất nước.
Ông Nguyễn Văn Vẻ - Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam
Đánh giá về vai trò của nước đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, ông Nguyễn Văn Vẻ cho biết: Mọi sự sống đều cần có nước, trong bối cảnh tài nguyên nước đang bị cạn kiệt, tác động của biến đổi khí hậu… vấn đề nước đang đe dọa sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
Trên thế giới, hàng tỷ người không có đủ nước ngọt để dùng. Dự báo con số này có thể lên đến 5 tỷ người, chiếm 1/3 dân số thế giới. có thể nói, thế kỷ 21, nước là “vàng”.
Tại Việt Nam, nguồn nước phân bổ không đồng đều, khu vực hạ lưu, nguồn nước cạn kiệt, đặc biệt vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Thảm họa, hạn hán,lũ quét, xâm nhập mặn ảnh hưởng đến nguồn nước.
Đồng thời, nguồn nước tuy nhiều nhưng phụ thuộc vào bên ngoài, đắp đập, xây dựng thủy điện ở nhiều nơi khiến nguồn nước bị cạn kiệt đặc biệt vào mùa khô tại khu vực Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, ảnh hưởng đến người yếu thế và người nghèo.
GS.TS Trần Đức Hạ - Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu cấp thoát nước và môi trường – Hội Cấp thoát nước Việt Nam
Nói về bức tranh tổng thể thực trạng khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở Việt Nam những năm qua, GS.TS Trần Đức Hạ cho hay, nước ta có 108 lưu vực sông với khoảng 3.450 sông, suối có chiều dài từ 10km trở lên. Tổng lượng nước mặt hằng năm khoảng 830-840 tỷ m3, trong đó hơn 60% lượng nước được sản sinh từ nước ngoài, chỉ có khoảng 310-320 tỷ m3 được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Tổng trữ lượng nước dưới đất tiềm năng trên toàn quốc khoảng 69 tỷ m3/năm (tương đương 189 triệu m3/ngày), trong đó nước ngọt khoảng 22,3 tỷ m3/năm (tương đương khoảng 61 triệu m3/ngày) phân bố ở 18 tầng chứa nước chính, chiều sâu phân bố từ vài mét đến vài trăm mét.
Theo thống kê sơ bộ trên toàn quốc, nguồn nước hiện đang được khai thác phục vụ cho các mục đích sử dụng khoảng 84 tỷ m3/năm, trong đó từ nước dưới đất khoảng 3,8 tỷ m3/năm (tương đương 10,5 triệu m3/ngày), nước mặt khai thác sử dụng khoảng 80,6 tỷ m3/năm (=221 triệu m3/ngày). Việc khai thác, sử dụng tập trung chủ yếu vào 7-9 tháng mùa khô. Trong đó, trên 80% lượng nước được sử dụng cho mục đích nông nghiệp (khoảng 65 tỷ m3/năm) và cơ cấu sử dụng nước đang có xu hướng tăng dần cho công nghiệp, thuỷ sản và sinh hoạt do nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, đô thị hóa.
Nguồn nước phân bố không đồng đều và việc khai thác sử dụng nước cũng không đồng đều.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Trưởng phòng Quản lý vận hành và tưới tiêu, Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Theo ông Nguyễn mạnh Hùng, nguồn nước của chúng ta phân bổ không đều về không gian và thời gian trong khi đó mùa mưa lượng nước được 80% nhưng về thời gian lại chỉ trong vòng 3-4 tháng thôi. Tức là chúng ta chỉ có 20% lượng nước trong vòng 6-7 tháng còn lại.
Trong khi để sản xuất nông nghiệp, có những vùng như ở miền trung thì cả 2 vụ chính Đông Xuân và Hè thu đều trong mùa khô hết. Như vậy, việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp - đối tượng tiêu thụ nước lớn nhất bắt buộc phải có các công trình thuỷ lợi. Vai trò của các công trình thuỷ lợi là điều tiết nước từ mùa mưa sang mùa khô. Tính đến nay, ở nước ta có khoảng 900 hệ thống thuỷ lợi có qui mô diện tích khoảng 200 ha trở lên trong đó có khoảng 122 hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn và với diện tích phục vụ hơn 2.000 ha trở lên.
Nói về hệ thống thuỷ lợi hiện nay, trung bình các năm với điều kiện nước bình thường, không xảy ra tình trạng thiếu cực đoan thì tưới ổn định cho khoảng 7,3 triệu ha đất gieo trồng lúa; 1,5 triệu ha cây rau màu và cây công nghiệp và cấp khoảng 6 tỷ m3 nước phục vụ sinh hoạt và hoạt động công nghiệp. Có thể nói rằng nguồn nước này đóng vai trò rất quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đa dạng hoá cây trồng và nâng cao hiệu quả , góp phần rất lớn cho các vùng ở nông thôn nhất là nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo
Ông Cao Văn Quý - Phó Tổng Giám đốc Thường trực Công ty Cổ phần Cấp nước Hải Phòng
Chia sẻ về việc đảm bảo nguồn cung và nguồn nước an toàn đến từng khách hàng, ông Cao Văn Quý cho biết: Hiện nay Công ty Cổ phần cấp nước Hải Phòng đang phục vụ và cung cấp nước cho khoảng 1,5 triệu/2 triệu người dân tại thành phố, trong đó có các Huyện đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ là nơi có nguồn nước khan hiếm. Và việc duy trì đảm bảo cung cấp nước an toàn cho nhân dân và hoạt động kinh tế vẫn là hoạt động xuyên suốt của chúng tôi.
Đối với cấp nước Hải Phòng và cấp nước cả nước thì việc duy trì đảm bảo cấp nước an toàn luôn luôn là một thách thức .
Từ năm 2013 Công ty chúng tôi đã lập và thực hiện kế hoạch cấp nước an toàn, bản chất của nó là quản lý rủi ro tổng hợp. Quản lý toàn bộ rủi ro từ nguồn nước, nhà máy nước, mạng lưới cấp nước, cung cấp điện, cung cấp hóa chất, vật tư, ...
Chúng tôi đã thực hiện và duy trì hàng năm, bên cạnh đó là có sự cải tiến và sự chuẩn bị trước để đưa ra những biện pháp ứng phó đối với các rủi ro một cách tổng thế, chính vì thế mà trong vấn đề cung cấp nước Công ty được đánh giá là tương đối tốt.
Đối với vấn đề đầu tư và nâng cấp hệ thống cấp nước, chúng tôi luôn duy trì công suất dư 20-30% để khi thiên tai xảy ra thì chúng tôi có thể ứng phó kịp thời.
Chúng tôi cũng đang tập trung vào vấn đề bảo vệ nguồn nước, là một thành phố ở cuối nguồn bị ảnh hưởng rất nhiều ở nước thải đô thị và vấn đề nhiễm mặn đang diễn biến hết sức phức tạp, chúng tôi đã đầu tư rất nhiều kỹ thuật công nghệ tiên tiến để giải quyết vấn đề ô nhiễm nguồn nước và giải quyết vấn đề cấp nước tại huyện đảo Cát Bà và Bạch Long Vĩ.
Những thách thức trong đảm bảo an ninh nguồn nước ở Việt Nam
Do điều kiện tự nhiên, chúng ta phải thường xuyên đối mặt với các thiệt hại và rủi ro thiên tai nghiêm trọng. Bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt; sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn, cháy rừng... đã, đang và sẽ là những thách thức khách quan rất lớn bên cạnh những yếu tố chủ quan cho vấn đề an ninh nguồn nước hiện nay.
Chia sẻ về vấn đề này, GS.TS Trần Đức Hạ cho biết, nước ta đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước như thứ nhất, tỷ lệ dân số vùng nông thôn di dời sang đô thị. Thứ hai là vấn đề sử dụng đất không hợp lý. Thứ ba, vấn đề suy thoái tài nguyên rừng. Thứ tư, đất nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có 3260km đường bờ biển kéo dài, vấn đề nước biển dâng, địa hình đồi núi dốc và chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu.
Và vấn đề suy giảm nguồn nước, ô nhiễm nguồn nước. Nước biển dâng gây nhiễm mặn, chịu tác động lớn tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Cùng với đó, tại mỗi địa phương chịu thách thức riêng về nguồn nước và vấn đề chúng ta không kiểm soát được lượng dòng chảy trong và ngoài lãnh thổ.
Liên quan đến xây dựng thủy điện cũng là một thách thức. Đồng thời, ô nhiễm nguồn nước, nước thải sinh hoạt là vấn đề bức bối liên quan đến đô thị, dân cư tập trung.
Hiện nay trên cả nước có 71 nhà máy xử lý nước thải tập trung, chỉ mới xử lý được khoảng 15% nước thải sinh hoạt tại đô thị, còn lại xả ra môi trường gây ô nhiễm nguồn nước sông, nước mặt.
Theo ông Nguyễn Văn Vẻ, thiếu nước đe dọa đến bệnh tật, kinh tế, gây đói nghèo.
Tại Việt Nam có nhiều thách thức đối với an ninh nguồn nước nên năm 2022, Bộ Chính trị đã ra Kết luật 36 về đảm bảo an ninh nguồn nước. Trong các khu đô thị, làng nghề, nông thôn, đặc biệt hầu như khu vực nông thôn chưa có khu vực, công trình xử lý nước thải. Vấn đề nước thải ở mức đáng báo động. Nước thải đô thị chỉ xử lý con số rất nhỏ, chỉ trên 20%.
Hạn hán mùa khô ở miền Trung, Tây Nguyên khiến người dân gặp nhiều khó khăn, gây đói nghèo, bệnh tật mà Luật Tài nguyên nước sửa đổi sắp tới rất quan trọng để giải quyết nhiều vấn đề.
Chia sẻ về việc lắp đặt và xây dựng các công trình cấp/thoát nước, đặc biệt trong mùa mưa bão thời gian qua, ông Cao Văn Quý cho biết: Đối với việc xây dựng hệ thống cấp nước trong đô thị luôn luôn là một thách thức, với các đô thị cũ, cảnh quan chật hẹp có rất nhiều hệ thống đường ống kỹ thuật cấp nước, thoát nước, viễn thông, ... tuy nhiên đối với công tác quản lý hồ sơ, giấy tờ liên quan đến các công trình cũ hết sức phức tạp khiến cho việc thi công lắp đặt các hệ thống có kích thức lớn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong mùa mưa lũ.
Đối với đô thị mới thì gặp phải vấn đề về quy hoạch và quản lý, điều chỉnh quy hoạch. Cá nhân tôi thấy rằng quy hoạch đang tập trung nhiều vào quy hoạch không gian đô thị nhưng với quy hoạch phát triển hạ tầng đi theo như cấp nước, thoát nước, ... thì quy hoạch đang xử lý chưa tốt.
Vì vậy, vấn đề quản lý quy hoạch và quy hoạch hệ thống cấp nước nói riêng và hệ thống hạ tầng đô thị nói chung cần được xử lý tốt hơn thì mới có thể giải quyết bài toán mà thực tế đòi hỏi.
Còn theo ông Nguyễn Mạnh Hùng, để đảm bảo nước cho sản xuất nói chung và các ngành khác thì hiện tại Bộ NN và PTNT phải thực hiện theo qui định của pháp luật trước mắt là Luật thủy lợi và mới đây nhất là theo định hướng của kết luận 36 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập.
Những giải pháp này phải được xây dựng và đang được xây dựng trên cơ sở những thách thức mà các diễn giả đã đề cập tới đó là thách thức từ phía thượng nguồn từ các con sông bởi vì 63% lượng nước chúng ta có từ ngoại biên. Trong khi các nước chung biên giới với chúng ta đang xây dựng đập, hồ chứa làm thủy điện. Họ tăng cường các công tác sử dụng nước, chuyển đổi lưu vực làm suy giảm nguồn nước và ít nhất làm biến động, thay đổi qui luật nguồn nước. Đây chính là nguyên nhân chính gây nên sự xâm nhập mặn ở nước ta.
Rồi việc nước biển dâng khiến, mưa cực đoan hơn, khô hạn dài ngày. Rồi tác động từ việc phát triển kinh tế nội tại, tăng dân số, tăng nhu cầu dung nước, phát triển đô thị hóa, tăng việc khai thác cát sỏi các sông khiến tất cả các con sông, mực nước hạ thấp xuống, không đủ cho các công trình thủy lợi hoạt động.
Nói về giải pháp, ông Nguyễn Mạnh Hùng đề xuất: tăng cường, nâng cao hiệu quả và áp dụng các công nghệ hiện đại, thông minh trên nền tảng kỹ thuật số trong khai thác nước và hiện đại hóa hệ thống quan trắc, giám sát thiết bị phân phối và điều tiết nước và ngăn mặn, giữ ngọt.
Giải pháp thứ hai là tiếp tục ưu tiên nguồn lực để xây dựng mới các hồ chứa nước phục vụ đa mục tiêu những công trình kiểm soát mặn, ngọt ở các vùng cửa sông lớn, cống, đập dâng trên các dòng chính và các hệ thống đổi nước, kết nối, liên kết nguồn nước giữa các lưu vực sông. Bên cạnh đó tiếp tục triển khai hệ thống tưới hiện đại, thông minh và tái sử dụng lại nước gắn với vùng sản xuất.
Và một việc rất là quan trọng là giải quyết những vấn đề ô nhiễm nước tại các hệ thống sông, các công trình thủy lợi và đáp ứng nguồn nước tiêu chuẩn cho các công trình công nghệ cao cũng như các ngành kinh tế khác.
Nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước
Tại Việt Nam, Hiến pháp quy định “nước là tài sản”, Chính phủ Việt Nam luôn nỗ lực tăng cường và kiện toàn, thể chế, chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước, đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia có chung nguồn nước với Việt Nam cũng như hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới nhằm quản lý, bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước, góp phần vào tiến trình phát triển bền vững của đất nước cũng như của khu vực và toàn cầu.
Nói về việc hoàn thiện hành lang pháp lý, thể chế và chính sách pháp luật có vai trò như thế nào trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, ông Nguyễn Văn Vẻ chia sẻ: Các cơ quan đang triển khai lấy ý kiến của các chuyên gia, người dân lấy ý kiến về Luật Tài nguyên nước năm 2012. Do đó việc hoàn thiện hành lang pháp lý rất quan trong. Tài nguyên nước là cốt lõi trong phát triển bền vững đất nước, tài nguyên nước phải phát sử dụng tiết kiệm, hiệu quả.
Việc sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật cũng làm ảnh hưởng và gây ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm. do đó chúng ta cần chuyển sang sản xuất xanh.
Trong Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) có 1 điểm mới đáng chú ý là “chuyển dẫn từ phương thức quản lý hành chính sang quản lý hành chính kết hợp công cụ kinh tế”. Chia sẻ về vấn đề này, ông Cao Văn Quý cho biết: Khi chúng ta thực sự coi nước là tài nguyên thì nó cần được bảo vệ và một trong những công cụ bảo vệ đó là công cụ kinh tế. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí khi chuyển từ phương thức quản lý hành chính sang quản lý hành chính kết hợp với kinh tế, điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn.
Đối với Công ty Cấp nước Hải Phòng, chúng tôi có hai kiến nghị:
Đối với dịch vụ cấp nước hiện này, Nhà nước vẫn thống nhất quản lý về giá theo quy định của Chính phủ và UBND các tỉnh sẽ quyết định giá nước theo quy định và tình hình sinh hoạt của địa phương.
Khi sử dụng công cụ kinh tế thì sẽ đưa vào giá thành cung cấp nước, người dân sẽ phải chịu giá nước sinh hoạt lớn. Chúng tôi kiến nghị nên có lộ trình thực hiện hợp lý và phân loại nhóm đối tượng sử dụng ( đơn vị sản xuất, kinh doanh, người dân, ...) để có tính toán phù hợp cho các nhóm đối tượng trong chi trả trong dịch vụ cấp nước.
Về vấn đề xử phạt, khi gặp phải sự cố khiến nhà máy cấp nước theo điểm phải dừng lại khiến chúng tôi phải sử dụng một nhà máy khác cấp nước sang cho nhà máy gặp sự cố khiến nhà máy vượt quyền cấp nước và bị phạt. Chúng tôi cũng kiến nghị về quy phạm pháp luật, đặc biệt sau khi có Luật tài nguyên nước và thông tư hướng dẫn sẽ làm rõ các vấn đề này để các doanh nghiệp cung cấp nước chủ động ứng phó và giải quyết vấn đề nêu trên.
Với câu hỏi: Bộ NN&PTNN đã có kế hoạch cụ thể nào nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về đảm bảo an ninh nguồn nước và an ninh đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045? Ông Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng: Việc thực hiện kết luận 36 của Bộ Chính trị thì Bộ NN&PTNT và các cơ quan liên quan đang phải thực hiện theo QĐ1595 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành kế hoạch thực hiện Kết luận 36 của Bộ Chính trị. Theo nhiệm vụ được giao tổng hợp tình hình, Bộ NN&PTNT thống kê có khoảng 40 báo cáo từ các cơ quan đảng, chính quyền và cơ quan liên quan về việc triển khai Kết luận 36 của Bộ Chính trị.
Về phía Bộ NN&PTNT, hiện tại Bộ đang hoàn thiện hồ sơ, đề án bảo đảm an ninh nguồn nước và an ninh đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 thì sẽ phải trình Thủ tướng Chính phủ để ban hành. Ngoài ra, Bộ cũng đã ban hành kế hoạch triển khai theo những nhiệm vụ được giao trong đó sẽ thực hiện công tác điều phối các bên liên quan và tham mưu cho Chính phủ để triển khai các kế hoạch hành động.
Hai nữa là tập trung các nhiệm vụ các nhóm giải pháp như là hoàn thiện, thể chế, chính sách và đẩy mạnh công tác qui hoạch, thu hút nguồn lực đầu tư nâng cao hiệu quả công tác vận hành, bảo đảm công trình thủy lợi và đồng thời cũng phòng chống thiên tai, nâng cao chất lượng nghiên cứu chuyển giao và đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Việc của Bộ đã có 60 hoạt động và giao cho các cơ quan, đơn vị để triển khai sẽ có những cái tổng kết, đánh giá theo từng giai đoạn để tập trung đánh giá triển khai theo kết luận 36 của Bộ Chính trị.
Đánh giá về việc triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Kết luận số 36-KL/TW về bảo đảm an ninh nguồn nước tại các địa phương thời gian qua, GS.TS Trần Đức Hạ: Mục tiêu trong Kết luận 36 của Bộ Chính Trị về đảm bảo an ninh nguồn nước vào năm 2045. Toàn xã hội thực hiện 9 giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm.
Trong đó có 3 mốc chính, đến năm 2025, phải lập được quy hoạch nước mặt, nước ngầm và những thách thức hiện hữu.
Đến năm 2030, phải cân đối đủ nước.
Đến năm 2045, nước ta chủ động được nguồn nước cả về số lượng, về chất lượng, an ninh và an toàn nguồn nước.
Ngoài ra, việc hoàn thiện thể chế, chính sách, việc thực thi hoàn thiện dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm cải thiện, khắc phục những bất cập rất quan trọng.
Chủ động điều hòa tích trữ nguồn nước để phục vụ dân sinh. Nâng cao năng lực quản lý, đảm bảo an ninh nguồn nước.
Nước ta chịu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, phải chủ động có giải pháp cụ thể phòng ngừa phòng chống thiên tai chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Đưa công nghệ chuyển đổi số trong quản lý nguồn nước.
Nước ta có 63 % sông suối chịu ảnh hưởng lượng dòng chảy từ nước ngoài, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế để đảm bảo chủ động được nguồn nước
Để đảm bảo an ninh nguồn nước cần sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, giữa các Bộ phải có sự rõ ràng, trách nhiệm rõ ràng.
Nước là tài nguyên hãn hữu, cần nâng cao nhận thức của toàn thể mọi người về vấn đề an ninh nguồn nước cũng như trách nhiệm của cộng đồng trong việc sử dụng tài nguyên nước
Theo ông Nguyễn Văn Vẻ: Một trong các giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao ý thức của người dân trong việc nâng cao ý thức của công đồng về thực hành, sử dụng nước tiết kiệm là đưa chính sách pháp luật lĩnh vực nước là công tác truyền thông cần đi trước một bước để thay đổi nhận thức. Do đó cần tuyên truyền vai trò của nước đối với cuộc sống.
Đồng thời, thời gian tới, chúng ta cũng cần tăng cường giám sát của các tổ chức xã hội, cộng đồng và mặt trật tổ quốc trong việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước.
Nếu trường hợp xảy ra ô nhiễm nguồn nước thì nguồn nước dự phòng được xác định/phân bổ ra sao?
Nói về vấn đề này, ông Nguyễn Mạnh Hùng: Theo qui định của pháp luật, Theo qui định của Luật thủy lợi thì nước sẽ phân phối theo thứ tự ưu tiên, trước hết là nhu cầu thiết yếu như là nước sinh hoạt, công nghiệp, chăn nuôi sau đó mới cho nông nghiệp, vì nhu cầu thấp hơn. Còn về cụ thể nguồn nước bổ sung như thế nào thì phải xác định cụ thể trên từng hệ thống thủy lợi hoặc từng hệ thống sông. Cái này đã được qui định trong qui trình vận hành của hệ thống sông, hệ thống công trình thủy lợi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nghĩa là phải từng trường hợp, điều kiện cụ thể. Chúng ta phải khoanh vùng ô nhiễm, tiêu ô nhiễm đi đâu, phải có nguồn bổ sung để xử lý ô nhiễm đó. Đồng thời trong qui định pháp luật của Luật thủy lợi thì chúng ta có thể sử dụng nguồn nước từ các hồ chứa phục vụ thủy lợi để bổ sung, điều tiết phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất.
Theo ông Cao Văn Quý, về công tác tuyên truyền tiết kiệm nước và bảo vệ môi trường thì đây là một hoạt động thường xuyên và kế hoạch tổng thể công tác hàng năm của hạng mục truyền thông là một công tác lớn, chúng tôi đã kết hợp với các đoàn thể, cơ quan chính quyền của địa phương để tuyên truyền về vấn đề liên quan đến tài nguyên nước và có hiệu quả rất tích cực.
Về nâng cao chất lượng nước, đây vẫn là vấn đề chúng tôi luôn luôn cải thiện tuy nhiên hiện nay chúng tôi đang tập trung hơn vào vấn đề giải quyết ô nhiễm môi trường và coi quản lý chất lượng nước là vô cùng quan trọng. Trong vài năm qua, Công ty chúng tôi cũng đã xây dựng đội ngũ có trình độ để quản lý những vấn đề về chất lượng nước.
Nhiều năm trở lại đây, an ninh nguồn nước đã trở thành vấn đề cấp thiết không chỉ ở Việt Nam mà còn trên cả thế giới bởi những nguyên nhân: Tính công bằng trong chia sẻ nguồn nước, tác động của biến đổi khí hậu cùng sự suy kiệt nguồn nước ngày càng hiện hữu. Từ thực tế đó, Việt Nam đang ngày càng chú trọng và có các biện pháp mạnh tay để đảm bảo an ninh nguồn nước nhằm hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững.