Hoàn thiện lộ trình khí thải ô tô: Hướng tới kiểm soát thống nhất và đồng bộ
Chiều 11/11, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chủ trì cuộc họp về dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định lộ trình áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với khí thải xe ô tô tham gia giao thông đường bộ.
Giảm ô nhiễm, thúc đẩy phương tiện sạch
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, việc xây dựng lộ trình này nhằm kiểm soát, giảm thiểu ô nhiễm không khí do khí thải phương tiện, qua đó bảo vệ sức khỏe cộng đồng, cải thiện chất lượng môi trường sống. Đồng thời, đây là căn cứ pháp lý để từng bước loại bỏ phương tiện không đạt chuẩn, thúc đẩy chuyển đổi sang xe sạch, thân thiện môi trường, phù hợp cam kết giảm phát thải khí nhà kính và phát triển giao thông bền vững của Việt Nam.
Việc thực hiện sẽ được tiến hành thận trọng, theo lộ trình hợp lý nhằm hạn chế tối đa tác động tới kinh tế - xã hội, tránh gây xáo trộn cho người dân và doanh nghiệp. Giai đoạn đầu, các quy định được ưu tiên áp dụng tại những khu vực có mức độ ô nhiễm nghiêm trọng như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

Song song với việc kiểm soát khí thải, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng khuyến khích loại bỏ dần phương tiện cũ, không đạt chuẩn; thúc đẩy sử dụng phương tiện xanh như xe điện, xe hybrid và xe ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường.
Lộ trình áp dụng theo từng nhóm phương tiện
Lộ trình kế thừa các nội dung còn hiệu lực của Quyết định 16/2019/QĐ-TTg và Quyết định 19/2024/QĐ-TTg, đồng thời bổ sung lộ trình áp dụng tiêu chuẩn khí thải cho các dòng xe sản xuất từ năm 2017 trở đi.
Cụ thể, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất:
Xe ôtô sản xuất trước năm 1999, khi tham gia giao thông sẽ áp dụng tiêu chuẩn khí thải Mức 1 (tương đương tiêu chuẩn Euro 1) kể từ ngày Quyết định có hiệu lực thi hành.
Xe ôtô sản xuất từ năm 1999 đến hết năm 2016, khi tham gia giao thông sẽ áp dụng Mức 2 (tương đương tiêu chuẩn Euro 2) kể từ ngày Quyết định có hiệu lực thi hành.
Xe ôtô sản xuất từ năm 2017 đến hết năm 2021 khi tham gia giao thông sẽ áp dụng Mức 3 (tương đương tiêu chuẩn Euro 3) từ ngày 1/1/2026. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì áp dụng Mức 4 (tương đương tiêu chuẩn Euro 4) từ ngày 1/1/2027.
Xe ôtô sản xuất từ năm 2022 khi tham gia giao thông sẽ áp dụng Mức 4 từ ngày 1/1/2026; áp dụng Mức 5 (tương đương tiêu chuẩn Euro 5) từ ngày 1/1/2032; riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, áp dụng Mức 5 từ ngày 1/1/2028.
Từ ngày 1/1/2029, tất cả các xe ôtô tham gia giao thông ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh phải đáp ứng từ Mức 2 trở lên.
Đáng chú ý, những kiểu loại xe đã được cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường trước 1/1/2022 sẽ được áp dụng tiêu chuẩn tương đương Mức 3.
Cân nhắc tác động kinh tế - xã hội
Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Lê Anh Tuấn thống nhất với dự thảo lộ trình áp dụng quy chuẩn khí thải đối với xe ôtô tham gia giao thông đường bộ.
Tuy nhiên, việc áp dụng Mức 4 đối với nhóm xe sản xuất giai đoạn 2017-2021 tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là vấn đề đáng lưu ý, bởi gần 16% trong số này không đạt chuẩn, chủ yếu là xe tải và xe đầu kéo phục vụ vận tải hàng hóa.
Nếu siết quy chuẩn khí thải đồng loạt trên toàn địa bàn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến chi phí vận tải và logistics, đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh nơi có hệ thống cảng và trung tâm luân chuyển hàng hóa lớn.
Một số ý kiến khác đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần làm rõ nội dung liên quan đến phân vùng khu vực phát thải và thẩm quyền xác định vùng áp dụng tiêu chuẩn khí thải; quy định rõ thời hạn và lộ trình loại bỏ, tránh kéo dài tình trạng phương tiện cũ, chất lượng thấp...
Chính sách phải đồng bộ từ phương tiện đến nhiên liệu
Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh lộ trình áp dụng các quy chuẩn khí thải xe ôtô tham gia giao thông cần được xem xét một cách thống nhất, đồng bộ giữa ôtô sản xuất mới, nhập khẩu mới và xe đang lưu hành; tránh tình trạng xe nhập khẩu buộc phải đáp ứng tiêu chuẩn cao, trong khi phương tiện trong nước vẫn áp dụng mức thấp hơn, gây thiếu công bằng và ảnh hưởng đến thị trường.
Những nội dung có tác động đến quyền tài sản, quyền đi lại như khoanh vùng hạn chế phương tiện, cấm hoặc cho phép lưu hành..., Phó Thủ tướng yêu cầu phải rà soát rất kỹ trên cơ sở luật hiện hành, bảo đảm quy định đúng thẩm quyền và đúng cấp ban hành văn bản. Nội dung nào thuộc thẩm quyền của Thủ tướng, giữ trong Quyết định; nội dung thuộc thẩm quyền của Chính phủ, phải đưa vào nghị định. Nếu luật chưa quy định, cần nghiên cứu đề xuất sửa đổi, hoặc trường hợp cần thiết có thể báo cáo Quốc hội xem xét.
Phó Thủ tướng yêu cầu đánh giá toàn diện tác động của chính sách hạn chế hay cấm phương tiện, xác định rõ số lượng tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng, từ đó, xây dựng các phương án hỗ trợ phù hợp để không gây xáo trộn, thiệt thòi cho người dân và doanh nghiệp. Các biện pháp này có thể bao gồm hỗ trợ cải tiến, nâng cấp thiết bị trên phương tiện, chính sách đổi xe cũ sang xe mới, điều chỉnh phí, giá dịch vụ vận tải công cộng, cung ứng các loại nhiên liệu mới...
Phó Thủ tướng nêu nếu hạn chế một số loại phương tiện cá nhân tại các khu vực đô thị, nhà nước cần bố trí đầy đủ xe buýt, phương tiện công cộng sạch, quy hoạch hợp lý các điểm dừng, bến bãi để đảm bảo người dân đi lại thuận tiện, bảo vệ quyền lợi và sinh hoạt hàng ngày. Khi yêu cầu phương tiện đạt mức tiêu chuẩn khí thải cao hơn, phải bảo đảm khả năng cung ứng nhiên liệu trên thị trường.
"Do đó, chính sách phải đồng bộ từ phương tiện đến nhiên liệu, từ lộ trình kỹ thuật đến điều kiện bảo đảm thực thi," Phó Thủ tướng nêu.
Đối với phương tiện của lực lượng quốc phòng, công an, Phó Thủ tướng cho rằng việc quy định riêng chỉ áp dụng đối với phương tiện đặc chủng, còn các phương tiện vận tải, phục vụ dân sinh vẫn phải tuân thủ quy chuẩn chung; đồng thời tiếp tục nghiên cứu giải pháp cải tiến công nghệ, thay thế thiết bị để giảm khí thải.
Phó Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Xây dựng và Bộ Tư pháp rà soát kỹ các nội dung trong dự thảo Quyết định của Thủ tướng, bảo đảm đúng thẩm quyền; đồng thời phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc thống nhất quy chuẩn giữa các loại phương tiện và nhiên liệu.
Trong tổ chức thực hiện, cần phân cấp mạnh cho địa phương, tạo điều kiện để các địa phương có thể áp dụng sớm và ở mức tiêu chuẩn khí thải cao hơn, phù hợp với điều kiện thực tế.




