An ninh nguồn nước

Liên kết nguồn nước – Nền tảng phát triển bền vững cho Đồng bằng sông Cửu Long

Anh Minh 24/10/2025 10:00

Đồng bằng sông Cửu Long – vựa lúa lớn nhất cả nước đang bước vào giai đoạn khủng hoảng nước ngọt nghiêm trọng. Sau gần một thập kỷ liên tiếp hứng chịu hạn hán và xâm nhập mặn kéo dài, các chuyên gia nhận định: Chỉ một chiến lược quy hoạch nguồn nước liên vùng quy mô lớn mới có thể giúp khu vực này thoát khỏi vòng luẩn quẩn “thiếu nước – thiệt hại – tái đầu tư”.

Nước – yếu tố chiến lược của vùng đất “chín rồng”

Từ năm 2015 đến nay, Đồng bằng sông Cửu Long liên tục chứng kiến ba mùa khô lịch sử: 2015 - 2016, 2019 - 2020 và 2023 - 2024. Các đợt hạn mặn này không còn mang tính chu kỳ, mà đã trở thành hiện tượng thường trực.

Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, đợt hạn mặn 2015 - 2016 gây thiệt hại cho hơn 160.000 ha lúa, hàng triệu người dân thiếu nước sinh hoạt. Năm 2019 - 2020, ranh mặn 4‰ lấn sâu tới 110 km trên sông Vàm Cỏ, 130 km ở sông Cửa Tiểu và Cửa Đại (Bến Tre), phá kỷ lục lịch sử.

dong-bang.jpeg
Ảnh minh họa

Đến mùa khô 2023 - 2024, theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mặn 4‰ đã xâm nhập 40 - 66 km tại các cửa sông, có nơi vượt đỉnh năm 2016. Ước tính thiệt hại kinh tế đã vượt 70.000 tỷ đồng.

Dự báo mùa khô 2026, Tổng cục Khí tượng Thủy văn cảnh báo vùng này sẽ hứng chịu 3 - 4 đợt xâm nhập mặn cao điểm. Nguy cơ thiếu nước sinh hoạt và nước tưới nông nghiệp ngày càng lớn, đe dọa trực tiếp đến an ninh lương thực và sinh kế hàng triệu người dân.

Theo Chính phủ Việt Nam, trong Quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn 2050 (Quyết định 287/QĐ-TTg), nước là một trong bốn trụ cột phát triển. Tuy nhiên, hệ thống cấp nước hiện nay vẫn manh mún, thiếu liên kết.

Hơn 60% công trình cấp nước có quy mô nhỏ, chỉ phục vụ nội tỉnh, không đủ khả năng điều phối khi hạn – mặn diễn ra trên diện rộng. Các địa phương hạ lưu như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng vẫn phụ thuộc nhiều vào nước ngầm và nước mặt từ sông Tiền – sông Hậu, vốn đang suy giảm cả lưu lượng lẫn chất lượng.

Các chuyên gia cho rằng, đã đến lúc quy hoạch nước phải mang tư duy “liên vùng” vượt ra khỏi ranh giới hành chính. Các tuyến ống cấp nước thô liên tỉnh, trạm bơm vùng và hồ điều tiết trung tâm cần được hình thành đồng bộ để bảo đảm an ninh nước dài hạn.

Bài học từ Nhật Bản: Quản lý nước theo lưu vực


Từng đối mặt với khủng hoảng nguồn nước đô thị giai đoạn 1950–1970, Nhật Bản đã ban hành Water Basic Law, thiết lập mô hình quản lý nước theo lưu vực.

Nhờ đó, đến nay nước sạch phủ gần 100% dân số, 90% nước thải được xử lý, và tỷ lệ thất thoát tại Tokyo chỉ 3% - mức thấp nhất thế giới (số liệu Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch Nhật Bản, 2023).

Mô hình này có ba điểm then chốt: Quy hoạch theo lưu vực giúp điều phối nguồn nước thông suốt; Kết nối đồng bộ hệ thống nước sạch – nước thải – tái sử dụng, tạo chu trình khép kín; Huy động khu vực tư nhân qua các hình thức PPP trong phân phối và xử lý nước.

Đây là kinh nghiệm mà Việt Nam hoàn toàn có thể vận dụng, đặc biệt khi đã có nền tảng chính sách từ Chính phủ Việt Nam qua Đề án 06 và quy hoạch cấp nước vùng.

Theo Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu – Đại học Cần Thơ, giải pháp bền vững không nằm ở việc đắp đập ngăn mặn, mà ở việc xây dựng mạng lưới điều phối nước từ thượng lưu đến vùng ven biển, bảo đảm cấp nước quanh năm cho cả sản xuất và sinh hoạt.

Một ví dụ tiên phong là dự án trạm bơm nước thô và hệ thống tuyến ống liên vùng của Nhà máy nước Đồng Tâm, dự kiến cấp nước cho Đồng Tháp, Tây Ninh, Vĩnh Long. Nếu được vận hành đúng quy hoạch, đây sẽ là bước đi chiến lược trong xây dựng “mạng nước xương sống” của vùng.

Các chuyên gia cũng đề xuất thành lập trung tâm điều phối nước vùng hoạt động như “bộ điều độ” giúp đồng bộ lịch xả, lấy nước giữa các trạm bơm, hồ điều tiết và cống kiểm soát mặn.

Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước ngã rẽ quan trọng: tiếp tục ứng phó bị động với hạn – mặn, hay chủ động kiến tạo một hệ thống nước sạch liên vùng, hiện đại và bền vững.

Bài học từ Nhật Bản cho thấy, chỉ khi nước sạch, nước thải và thoát nước được quy hoạch đồng bộ, vùng mới có thể phát triển lâu dài. Mỗi tuyến ống, mỗi trạm bơm không chỉ cung cấp nước sinh hoạt, mà còn là “nguồn năng lượng sống” cho cả nền kinh tế – xã hội vùng hạ lưu Mekong.

Đây không còn là câu chuyện kỹ thuật, mà là chiến lược sinh tồn. Và chiến lược ấy phải bắt đầu ngay từ hôm nay.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
}
Liên kết nguồn nước – Nền tảng phát triển bền vững cho Đồng bằng sông Cửu Long
(*) Bản quyền thuộc về Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.