Vai trò của các nguồn năng lượng tái tạo tại Việt Nam
Hiện nay tất cả các nước trên thế giới đang đối mặt với cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu, với việc thực hiện mục tiêu của Paris COP 21 là đảm bảo sự tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu từ nay đến năm 2100 ở mức dưới 2°C, bằng biện pháp giảm sản xuất và sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí), nguyên nhân phát ra 2/3 lượng khí nhà kính (CO2) mà thay thế bằng các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) như: gió, mặt trời, sinh khối…
Riêng đối với Việt Nam – đất nước sẽ chịu tác động khá trầm trọng của biến đổi khí hậu, lại có tiềm năng nguồn NLTT (thủy điện nhỏ, gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt) phong phú, trong khi các nguồn năng lượng sơ cấp trong nước như thủy điện vừa và lớn, than, dầu khí đều ngày càng cạn kiệt, đang biến đổi từ một nước xuất khẩu năng lượng tịnh thành nước nhập khẩu tịnh thì việc tăng cường phát triển các nguồn NLTT có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu, vừa góp phần giảm phát thải khí nhà kính trong mục tiêu toàn cầu, vừa đảm bảo an ninh năng lượng, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thủy điện nhỏ
Thủy điện nhỏ (TĐN) được đánh giá là dạng năng lượng tái tạo khả thi nhất về mặt kinh tế – tài chính. Căn cứ vào các báo cáo đánh giá gần đây nhất, thì hiện nay nước ta có trên 1.000 địa điểm đã được xác định có tiềm năng phát triển TĐN, quy mô từ 100 kW tới 30 MW (với thế giới chỉ tới 10 MW), với tổng công suất đặt trên 7.000 MW (đứng đầu các nước ASEAN), các vị trí này tập trung chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
Hiện nay, có khá nhiều doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư và vận hành hiệu quả kinh tế cao các trạm thủy điện nhỏ tại một số tỉnh như: Hà Giang, Lào Cai, Nghệ An, Hà Tĩnh, Gia Lai…
TĐN vẫn được coi là nguồn NLTT, hiện cung cấp 19% sản lượng điện của toàn cầu. Công nghệ TĐN cũng bao gồm tua bin thủy lực, máy phát điện như thủy điện vừa và lớn, nhưng thường chỉ sử dụng lưu lượng dòng chảy (run-of-river) trên các nhánh sông nhỏ, hoặc suối để phát điện không cần đập và hồ chứa.
Lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái tại Công ty Khai Anh, xã Tân Minh, huyện Hàm Tân (Bình Thuận). Ảnh: Đỗ Hữu Tuấn
Năng lượng mặt trời
Hiện tại, năng lượng mặt trời đóng góp 8.7% của tổng sản lượng đầu ra. Chính phủ đặt mục tiêu tăng mức đóng góp của năng lượng mặt trời lên 20% vào năm 2050.
Tháng 7/2018, các dự án điện mặt trời với tổng công suất khoảng 15.000 MW được phát triển. Trong cùng thời gian, khoảng 748 dự án mái năng lượng mặt trời cũng đang hoạt động với tổng công suất 11.55MW và đã đạt được công suất 325 MW trong năm 2019.
Tỉnh thuộc Nam Trung bộ của Việt Nam, Ninh Thuận có tiềm năng sản xuất năng lượng mặt trời cao nhất và với hơn 140 dự án. Các khu vực tiềm năng khác bao gồm Bình Thuận, Daklak và Khánh Hòa, đã thu hút lần lượt 100,13 và 12 dự án.
German ASEAN Power, B.Grimm Power Public Co Ltd, Trina Solar, Siemens, Schletter nằm trong top những tập đoàn đầu tư vào ngành công nghiệp năng lượng mặt trời của Việt Nam.
Giá bán điện năng lượng mặt trời: 156 đồng/kWh tương đương 0.935 cent/kWh cho tất cả các dự án điện mặt trời trên lưới đạt được ngày vận hành thương mại (COD) trước ngày 30/6/2019 (trừ các dự án ở tỉnh Ninh Thuận).
Cùng với đó, mức thuế mới được qui định: Dự án điện mặt trời mặt đất có giá 1.620 đồng/kWh, tương đương 7,09 cent/kWh. Giá mua với dự án điện mặt trời nổi là 1.758 đồng/kWh, tương đương 7,69 cent/kWh. Dự án điện mặt trời mái nhà là 2.156 đồng/kWh, tương đương 9,35 cent/kWh.
Giá mua điện này được áp dụng cho một phần hoặc toàn bộ nhà máy điện mặt trời nối lưới có ngày vận hành thương mại trong giai đoạn từ ngày 1-7-2019 đến ngày 31-12-2021 và được áp dụng 20 năm kể từ ngày vận hành thương mại
Năng lượng gió
Việt Nam nằm trong khu vực gió mùa, bờ biển trải dài hơn 3.000km, cung cấp tiềm năng lớn cho năng lượng gió. Các khu vực Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long cung cấp tiềm năng khai thác năng lượng gió cao nhất với tốc độ gió trung bình từ 7 m/s trở lên. Tổng công suất gió được lắp đặt chỉ 0,2 GW trong nước nhưng tiềm năng có thể đạt khoảng 27 GW.
Việt nam có khoảng 300 MW năng lượng gió đã được lắp đặt giúp tăng mức sản lượng từ 46 MW năm 2013 lên thành 274 MW vào năm 2019.
Tập đoàn năng lượng tái tạo GE, Năng lượng tái tạo Mainstream, Tập đoàn Phú Cường, Blue Circle, Superblock Pcl, Siemens Gamesa, Doosan Heavy, Egeres Enerji và tập đoàn Tân Hoàn Cầu là một trong những nhà đầu tư lớn trong ngành điện gió Việt Nam.
Giá bán điện gió: 1,928 Việt Nam đồng/kWh (US cents 8.5/kWh) điện gió trên bờ và 2,223 Việt Nam đồng/kWh (US cents 9.8/kWh) với điện gió trên biển.
Thách thức lớn còn lại là giá bán thấp (FIT). Mặc dù, giá bán điện gió đã tăng gần đây nhưng vẫn còn thấp so với các nước láng giềng ở Đông Nam Á. Điều này làm cho các mức giá bán thương mại này ít mang tính khả thi đối với các nhà đầu tư.
Điện sinh khối
Việt Nam là một nước nông nghiệp do đó cũng sản xuất một lượng lớn chất thải nông nghiệp mỗi năm. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất khoảng 50% tổng lượng chất thải nông nghiệp cho cả nước. Trấu từ các trạm xay lúa, bã mía từ các nhà máy đường, trấu cà phê từ các nhà máy chế biến cà phê ở Tây Nguyên và dăm gỗ từ các ngành chế biến gỗ là nguồn tài nguyên sinh khối chính.
Từ năm 2018, 38 nhà máy đường trên toàn quốc đã sử dụng sinh khối cho sản xuất điện và nhiệt với tổng công suất khoảng 353MW. Ngoài chất thải nông nghiệp, chất thải rắn đô thị cũng là một nguồn sinh khối tốt.
Hiện tại, Việt Nam tạo ra hơn 28 triệu tấn chất thải hàng năm – trong đó – 76% được xử lý tại các bãi chôn lấp. Chúng ta có tiềm năng sản xuất khoảng 1 triệu MWh vào năm 2020 và 6 triệu MWh vào năm 2050 từ chất thải này.
Chính phủ Việt Nam đã đặt mục tiêu 500MW cho năng lượng sinh khối vào năm 2020 và 2.000 MW vào năm 2030.
Giá bán điện sinh khối: 8 US cent/kWh (điện đồng phát) và từ 3 -7,5 US cents/kWh (giá cho các dự án khác).
Trong văn bản gửi Chính phủ, Bộ Công Thương đề xuất giá bán điện sinh khối tại dự án đồng phát tăng lên 7,03 cent (khoảng 1.630 đồng) một kWh, còn dự án điện sinh khối khác là 8,47 cent (gần 1.970 đồng) trong năm 2020
Thách thức lớn với sản xuất năng lượng sinh khối bao gồm, dư lượng phân tán không có hệ thống xử lý chất thải tại chỗ đáng tin cậy và thiếu thông tin về các công nghệ năng lượng sinh học và ý thức về chi phí đầu tư lớn cho các nhà máy sinh khối.
Quy hoạch điện 8 cần phải khắc phục được những hạn chế từ quy hoạch điện 7
Năng lượng địa nhiệt
Theo các chuyên gia địa chất, công nghệ để khai thác nguồn năng lượng địa nhiệt không quá phức tạp. Cứ xuống sâu 33m thì nhiệt độ trong lòng đất tăng 1 độ C. Ở độ sâu 60km, nhiệt độ có thể đạt tới 1.800 độ C. Muốn khai thác địa nhiệt ở vùng 200 độ C, chỉ cần khoan các giếng sâu 3 – 5km, rồi đưa nước xuống, nhiệt độ trong lòng đất sẽ làm nước sôi lên, hơi nước theo ống dẫn làm quay tua bin và máy phát điện.
Mặc dù nguồn địa nhiệt chưa được điều tra và tính toán kỹ. Tuy nhiên, với số liệu điều tra và đánh giá gần đây nhất cho thấy tiềm năng điện địa nhiệt trên đất liền tại Việt Nam có thể khai thác khoảng 300 MW.
Để khuyến khích phát triển NLTT, năm 2017, Chính phủ đã quy định giá mua điện từ các dự án NLTT (theo giá feed in tariff -FIT).
An Nhiên