Việt Nam đối mặt nguy cơ cạn kiệt và suy thoái nguồn nước
Việt Nam có khoảng 3.450 con sông với chiều dài từ 10 km trở lên. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, quốc gia đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái và cạn kiệt nguồn nước, đặt ra nhiều thách thức lớn về an ninh nguồn nước cả về số lượng lẫn chất lượng.
Phụ thuộc lớn vào nguồn nước bên ngoài
Theo ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết: Nguồn nước của Việt Nam hiện nay chịu ảnh hưởng đến 60% từ các quốc gia thượng nguồn. Trong khi đó, nhu cầu khai thác và sử dụng nước trong nước ngày càng gia tăng nhanh chóng.
“Mùa cạn kéo dài từ 7 đến 9 tháng, nhưng chỉ chiếm khoảng 28% tổng lượng dòng chảy hằng năm, gây khó khăn rất lớn trong việc bảo đảm nguồn nước cho sinh hoạt, sản xuất và phát triển kinh tế”, ông Khuyến nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, mâu thuẫn trong khai thác tài nguyên nước ngày càng gay gắt giữa các nhu cầu phát triển thủy điện, nông nghiệp, công nghiệp, giao thông thủy và sinh hoạt ở hạ lưu các lưu vực sông.
Theo thống kê, trong vòng 50 năm qua, nhu cầu sử dụng nước tại Việt Nam đã tăng gấp ba lần do sự gia tăng dân số, phát triển nông nghiệp, công nghiệp và đô thị hóa. Dự báo đến năm 2030, nhu cầu sử dụng nước có thể đạt 122,47 tỷ m³/năm, và đến năm 2050 sẽ tăng lên khoảng 131,7 tỷ m³/năm.
Song song với đó, tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng. Nước thải từ công nghiệp, nông nghiệp và đô thị, đặc biệt là các loại chưa qua xử lý, đang gây áp lực lớn lên hệ thống sông suối và các tầng chứa nước ngầm.
Hiệu quả sử dụng nước thấp, lãng phí lớn
Một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là hiệu quả khai thác và sử dụng nước tại Việt Nam còn thấp. Nhiều lĩnh vực, đặc biệt là nông nghiệp và đô thị, vẫn đang lãng phí tài nguyên nước.
Mặc dù GDP bình quân đầu người năm 2018 đã vượt mức 2.500 USD (gấp 2,5 lần so với năm 2002), nhưng giá trị tạo ra từ mỗi mét khối nước chỉ đạt 2,37 USD, bằng 12% so với mức trung bình toàn cầu (19,42 USD).
Ngoài ra, tình trạng suy giảm diện tích và chất lượng rừng đầu nguồn, biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và nước biển dâng cũng đang tác động sâu sắc đến nguồn nước, gây ra lũ ống, lũ quét, hạn hán và sạt lở đất nghiêm trọng ở nhiều địa phương.
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, chỉ số đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia của Việt Nam hiện chỉ đạt 2/5, thấp hơn nhiều so với Indonesia (3/5) và các quốc gia phát triển như Hàn Quốc, Úc (4/5 – mức cao nhất thế giới năm 2020).
Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là việc coi nước như “tài nguyên trời cho”, chưa được định giá đúng mức về mặt kinh tế. Điều này dẫn đến tình trạng sử dụng nước thiếu tiết kiệm, ý thức bảo vệ tài nguyên nước chưa cao.
Dù đã có sự quan tâm nhất định, song đầu tư tài chính cho công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên nước vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Nhiều hoạt động quan trọng như điều tra cơ bản, kiểm kê, phục hồi nguồn nước, xây dựng công trình hồ chứa, tích trữ nước… vẫn còn thiếu nguồn lực.
“Việc chưa có hệ thống công cụ hỗ trợ ra quyết định, xây dựng kịch bản nguồn nước và điều phối khai thác trên các lưu vực khiến cho việc sử dụng nước còn lãng phí, hiệu quả chưa cao. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh nước sạch, an ninh lương thực và an ninh năng lượng của quốc gia”, ông Khuyến cho biết.