[Góc nhìn tuần qua]: Bảo vệ môi trường biển, đại dương hướng đến mục tiêu phát triển bền vững
Nước ta có 28 tỉnh, thành phố ven biển với kinh tế biển phát triển mạnh. Tuy nhiên, ô nhiễm từ nguồn thải lục địa và nước thải chưa qua xử lý đang làm suy giảm chất lượng môi trường biển, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh kế người dân và hệ sinh thái ven bờ.
Theo Cục Biển và Hải đảo Việt Nam - Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong quá trình thực hiện Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, Cục tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đề xuất điều chỉnh, xây dựng Hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật phù hợp, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách hành chính, thúc đẩy phát triển. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, 80% nguồn ô nhiễm môi trường biển xuất phát từ đất liền; trong đó phần lớn là rác thải, nước thải và chất dinh dưỡng.
Tại Việt Nam chất thải thất thoát từ quá trình thu gom, xử lý chất thải rắn, đặc biệt là chất thải sinh hoạt, nước thải sinh hoạt và chất thải phát sinh từ chăn nuôi, tồn dư phân bón từ hoạt động nông nghiệp rất lớn. Những chất thải thất thoát này dễ dàng theo hệ thống sông suối ra biển.
Bên cạnh đó, hoạt động của các nhà máy, hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản… phát sinh chất thải đã và đang thất thoát trực tiếp ra môi trường biển.
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định, các quốc gia thành viên phải thông qua các luật và quy định để ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển do nguồn ô nhiễm từ đất liền.
Theo đó, Việt Nam đã xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để phòng ngừa, ngăn chặn và kiểm soát nguồn ô nhiễm biển này. Điều 46 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển từ đất liền nhưng chủ yếu quy định chung về việc phòng ngừa, ngăn chặn nguồn từ đất liền có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường biển, không có quy định cụ thể, không giao cơ quan nào quy định chi tiết nội dung này.
Công tác bảo vệ môi trường biển do nguồn ô nhiễm từ đất liền chủ yếu dựa vào các quy định khác có liên quan. Do vậy, việc nghiên cứu để đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về bảo vệ môi trường biển do nguồn ô nhiễm từ đất liền trong Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo là rất cần thiết.
Rác thải nhựa biển được coi là vấn đề mới phát sinh nhưng có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường biển. Nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế cho thấy có khoảng 8 triệu tấn rác thải nhựa toàn cầu hằng năm thải vào môi trường biển và đại dương. Lượng rác thải nhựa này đa số đến từ các con sông chiếm khoảng 82%, từ ven bờ biển khoảng 18%; trong đó 88% trôi nổi gần bờ biển, 10% chìm dưới biển và 2% ngoài khơi. Ở Việt Nam rác thải nói chung và rác thải nhựa nói riêng thất thoát từ đất liền, các hoạt động trên biển đã và đang đe dọa môi trường biển, trực tiếp là vùng biển ven bờ.
Rác thải trong môi trường biển có nguồn gốc từ các hoạt động trên đất liền và trên biển. Các nguồn từ đất liền phát thải rác thải biển vào môi trường biển bao gồm: Các dòng sông, khu dân cư và hoạt động kinh tế-xã hội ven biển, du lịch biển, các hoạt động cảng biển. Nguồn phát sinh rác thải trong môi trường biển đa số từ các hoạt động đánh bắt hải sản, nuôi biển, du lịch biển và giao thông vận tải; trong đó đánh bắt hải sản và nuôi biển là các nguồn chính phát thải chất thải rắn trên biển.
Tuy nhiên, việc quản lý các nguồn rác thải nói chung và rác thải nhựa nói riêng, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo chỉ có quy định chung về bảo vệ môi trường do các nguồn ô nhiễm từ đất liền và trên biển, không có quy định cụ thể về bảo vệ môi trường biển do rác thải biển. Quy định về việc giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải nhựa nhằm phòng chống ô nhiễm rác thải nhựa đại dương, trong đó quy định chất thải nhựa phải được thu gom, phân loại để tái sử dụng, tái chế hoặc xử lý theo quy định của pháp luật; chất thải nhựa không thể tái chế phải được chuyển giao cho đơn vị có chức năng xử lý theo quy định còn chung chung, không giao cho Chính phủ hoặc bộ, ngành quy định chi tiết để hướng dẫn thi hành.
Hiện nay, một vấn đề đáng lo ngại khác là việc các hệ sinh thái biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học. Trước tình trạng trên, nhiều chuyên gia cho rằng cần đẩy mạnh triển khai các giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Theo đó, cần tăng cường kiểm soát, ngăn ngừa ô nhiễm tại các khu vực ven biển; đầu tư, củng cố cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, thực hiện thu gom và xử lý chất thải nguy hại, nước thải, chất thải rắn sinh hoạt đạt quy chuẩn môi trường tại các địa phương có biển. Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và xử lý hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm từ các hoạt động khai thác khoáng sản, dầu khí, vận tải và khai thác thủy sản trên biển; xác định vùng rủi ro ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhận chìm trên biển. Xây dựng và thực hiện các đề án bảo vệ, bảo tồn hệ sinh thái biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.