Chuyển đổi số và công nghệ: Trụ cột tái cơ cấu nông nghiệp, thích ứng biến đổi khí hậu
Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành Nghị quyết 14-NQ/ĐU, xác định chuyển đổi số và KHCN là động lực then chốt cho phát triển nhanh, bền vững ngành.
Ngày 31/7/2025, tại Hà Nội, Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/ĐU, xác định rõ mục tiêu tạo đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS), coi đây là động lực then chốt để ngành phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh nhiều thách thức về tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu.
Việc ban hành Nghị quyết số 14-NQ/ĐU là bước cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và các chỉ đạo của Chính phủ, nhằm hiện thực hóa yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng, thích ứng xu thế nông nghiệp xanh, tuần hoàn, thân thiện môi trường.
.png)
Trong thời gian qua, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã từng bước đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào thực tiễn sản xuất, đạt được nhiều kết quả thiết thực. Các sản phẩm công nghệ như giống cây trồng, vật nuôi, chế phẩm sinh học, vắc xin, thiết bị công nghệ đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động KHCN, ĐMST và CĐS vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững. Nhiều tồn tại, bất cập trong tổ chức, quản lý và ứng dụng công nghệ còn tồn đọng, đòi hỏi một bước chuyển căn bản cả về nhận thức, thể chế và nguồn lực để biến KHCN thành nền tảng cho tái cơ cấu ngành.
Đặt KHCN và CĐS là trụ cột phát triển
Nghị quyết khẳng định, đột phá về KHCN, ĐMST và CĐS là động lực chính để ngành phát triển nhanh và bền vững. Các cấp ủy, lãnh đạo đơn vị phải nâng cao vai trò lãnh đạo, xác định rõ trách nhiệm cá nhân, tạo sự chuyển biến thực chất trong tổ chức thực hiện.
Ngành sẽ tập trung lựa chọn công nghệ, lĩnh vực ưu tiên; đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế cũng được xác định là giải pháp quan trọng để thu hút công nghệ và tri thức tiên tiến vào ngành.
Chuyển đổi số được đẩy mạnh toàn diện, tập trung vào hạ tầng số, công nghệ số, xây dựng và đưa vào vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành. Tinh thần xuyên suốt là bảo đảm dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung”, phục vụ hiệu quả cho quản lý, điều hành và cung cấp dịch vụ công.
Mục tiêu đến năm 2030
Đến năm 2030, tiềm lực KHCN và CĐS của ngành phải đạt trình độ tiên tiến ở nhiều lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, môi trường, viễn thám… Đồng thời, tỷ lệ đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngành đạt trên 50%.
Hệ thống tổ chức KHCN được sắp xếp tinh gọn, hiệu quả, gắn kết nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và đào tạo. Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số được thúc đẩy, các cơ sở dữ liệu của ngành kết nối đồng bộ với Trung tâm Dữ liệu quốc gia và hệ thống thông tin các bộ, ngành, địa phương.
Mục tiêu đặt ra là đến năm 2030, ngành đạt trên 12 nhà nghiên cứu KHCN trên mỗi vạn dân; số công bố khoa học quốc tế tăng 10%/năm; số sáng chế và văn bằng bảo hộ tăng 20%/năm; tỷ lệ thương mại hóa sản phẩm KHCN đạt 8-10%.
7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
Trước hết, toàn ngành phải nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy, hành động về vai trò của KHCN, ĐMST và CĐS. Các cấp lãnh đạo phải trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan.
Thứ hai, cần hoàn thiện thể chế, chính sách và cải cách hành chính, tạo động lực mạnh mẽ cho nghiên cứu và ứng dụng công nghệ. Việc rà soát văn bản pháp luật, thúc đẩy cơ chế đặt hàng minh bạch, hiệu quả được coi là chìa khóa để khơi thông nguồn lực.
Thứ ba, ngành sẽ đổi mới quy trình đặt hàng, xét duyệt, nghiệm thu nhiệm vụ KHCN; lựa chọn lĩnh vực ưu tiên như công nghệ sinh học, nông nghiệp số, công nghệ môi trường... Đồng thời, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia phù hợp thông lệ quốc tế.
Thứ tư, tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp KHCN theo hướng tinh gọn, hiệu quả; phát triển các viện, trung tâm nghiên cứu mang tính cạnh tranh khu vực. Mô hình “vườn ươm ĐMST”, mạng lưới chuyên gia trong và ngoài nước cũng sẽ được thúc đẩy.
Thứ năm, huy động mạnh mẽ các nguồn lực, trong đó tối thiểu 3% ngân sách thường xuyên của Bộ sẽ dành cho phát triển KHCN, ĐMST và CĐS. Chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này cũng được đề xuất, khuyến khích hợp tác công-tư.
Thứ sáu, chuyển đổi số trong hoạt động của Bộ và các đơn vị sẽ được triển khai mạnh mẽ. Hạ tầng số, trung tâm dữ liệu, các nền tảng số dùng chung, hệ thống điều hành thông minh sẽ được đầu tư đồng bộ, kết nối thông suốt với các cấp, ngành.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế và đào tạo nguồn nhân lực. Ngành sẽ thiết lập mạng lưới hợp tác với các tổ chức, viện trường quốc tế; thu hút chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài; và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp FDI.
Nghị quyết số 14-NQ/ĐU là một bước đi chiến lược nhằm đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành lực đẩy quan trọng, định hình tương lai ngành Nông nghiệp và Môi trường trong giai đoạn mới.