Đề xuất giữ lại 50% tín chỉ carbon trong giao dịch quốc tế
Đề xuất được đưa ra công bố tại Hội thảo tổng kết “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam”, do Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu tổ chức ngày 23/9.
Thị trường carbon phục vụ mục tiêu giảm phát thải quốc gia
Xu thế toàn cầu cho thấy hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon (thường gọi là thị trường carbon tuân thủ – ETS) đang phát huy hiệu quả, giúp các quốc gia thực hiện mục tiêu giảm phát thải theo Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Báo cáo hằng năm của Ngân hàng Thế giới chỉ ra, số lượng ETS trên toàn cầu đã tăng từ 25 hệ thống năm 2020 lên 37 hệ thống năm 2025. Tương ứng, tỷ lệ kiểm soát lượng phát thải khí nhà kính thông qua ETS cũng tăng đều từ khoảng 8% lên 23%, doanh thu tăng từ 25 tỉ USD năm 2020 lên 69,1 tỉ USD năm 2024.
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, cho rằng điều này không chỉ minh chứng hiệu quả về mặt chính sách mà còn khẳng định xu hướng giá carbon ngày càng tăng.
.png)
Việt Nam đã triển khai công cụ thị trường carbon nhằm đạt mục tiêu giảm phát thải theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), hướng tới phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Luật Bảo vệ Môi trường 2020 lần đầu tiên quy định về tổ chức và phát triển thị trường carbon. Trên cơ sở này, Chính phủ ban hành Nghị định 06/2022/NĐ-CP và tiếp tục sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 119/2025/NĐ-CP, đặt ra lộ trình phát triển thị trường carbon với giai đoạn thí điểm đến hết năm 2028 và vận hành chính thức từ năm 2029, trong đó hướng tới thí điểm sàn giao dịch carbon ngay trong năm 2025.
Để thị trường vận hành hiệu quả, Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon, Nghị định về hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng; Bộ Tài chính xây dựng Nghị định về sàn giao dịch carbon trong nước. Việc đánh giá tác động của các phương án chính sách khác nhau giúp giảm thiểu rủi ro, tối đa hóa lợi ích cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Đây cũng là định hướng cho hỗ trợ kỹ thuật do Cơ quan dịch vụ dự án Liên hợp quốc (UNOPS) tài trợ thông qua ETP.
Nghiên cứu đã xác định các phương án quản lý ETS giai đoạn thí điểm, bao gồm xác định phạm vi, thiết lập tổng hạn ngạch và phân bổ hạn ngạch cho từng cơ sở, cùng phương án sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ.
Trong giai đoạn thí điểm đến năm 2028, khoảng 200 doanh nghiệp trong các lĩnh vực nhiệt điện, sắt thép, xi măng sẽ tham gia trao đổi hạn ngạch phát thải. Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số trong những năm tới, đồng nghĩa nhu cầu sản xuất và tiêu thụ năng lượng hóa thạch lớn hơn, phát thải nhiều hơn. Do đó, nhóm chuyên gia đề xuất thị trường carbon nên có cơ chế linh hoạt để doanh nghiệp làm quen và chuyển dịch công nghệ dần dần.
Ông Hồ Công Hòa, đại diện nhóm nghiên cứu, cho biết hệ thống trao đổi hạn ngạch giúp giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp. Khi không có ETS, doanh nghiệp buộc phải đầu tư đầy đủ các biện pháp giảm phát thải để tuân thủ hạn ngạch hằng năm. Với ETS, gánh nặng này giảm bớt do doanh nghiệp có thể lựa chọn phương án tối ưu: mua hạn ngạch của bên khác, mua tín chỉ carbon bù trừ hoặc tự đầu tư giảm phát thải.
Về lâu dài, mục tiêu của thị trường carbon là buộc các doanh nghiệp phát thải lớn đầu tư công nghệ giảm phát thải. Do đó, tỷ lệ sử dụng tín chỉ bù trừ cần giảm dần để khuyến khích chuyển đổi công nghệ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong giai đoạn thí điểm, các nước đều theo dõi sát sao để điều chỉnh kịp thời, ví dụ áp giá trần – giá sàn, quy định tỷ lệ dự trữ tín chỉ trong nước hoặc tổ chức đấu giá tín chỉ. Nhờ đó, giá carbon phản ánh đúng chi phí và thiệt hại môi trường.
Điều chỉnh tỷ lệ tín chỉ giữ lại theo lộ trình
Các chuyên gia nhận định, thị trường trao đổi kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính giữa các quốc gia theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris đang dần mở rộng. Đây là cơ hội để Việt Nam huy động nguồn lực quốc tế cho sản xuất, kinh doanh bền vững. Tuy nhiên, kết quả giảm phát thải khi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sẽ được tính cho NDC của quốc gia khác. Việc bán quá nhiều tín chỉ carbon ra quốc tế có thể khiến doanh nghiệp trong nước thiếu tín chỉ bù trừ hoặc ảnh hưởng tới việc thực hiện các cơ chế giảm phát thải quốc tế như CORSIA, CBAM; nguy hiểm nhất là không đủ tín chỉ để đạt mục tiêu NDC quốc gia.
Bà Nguyễn Hồng Loan, Chuyên gia chính sách khí hậu, Công ty TNHH Kiến tạo khí hậu xanh (GreenCIC) – Trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: Để đảm bảo sự nhất quán giữa thị trường carbon trong nước và giao dịch tín chỉ quốc tế, các khuyến nghị chính sách đề xuất cơ quan quản lý cân nhắc lộ trình quản lý tích hợp theo từng giai đoạn.
Giai đoạn thí điểm 2025 – 2028: Ưu tiên ổn định thị trường và tính khả thi kinh tế. Doanh nghiệp được phép bù trừ tối đa 30% hạn ngạch bằng tín chỉ. Với giao dịch quốc tế, Việt Nam sẽ giữ lại 50% tổng số tín chỉ để phục vụ mục tiêu quốc gia.
Giai đoạn sau 2028: Khi các quy định thị trường hoàn thiện, giới hạn bù trừ trong nước giảm xuống còn 20%, hạn ngạch phát thải được điều chỉnh phù hợp mục tiêu NDC có điều kiện hỗ trợ từ quốc tế. Giao dịch tín chỉ carbon quốc tế vẫn giữ lại ít nhất 50% tín chỉ để tránh rủi ro bán vượt.
Từ 2030 trở đi: Thị trường carbon tiến tới tương thích với các mục tiêu khí hậu tham vọng nhất của Việt Nam, gồm cả NDC có điều kiện và Tuyên bố quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP). Giới hạn bù trừ giảm xuống 10%, buộc doanh nghiệp trực tiếp giảm phát thải. Tỷ lệ tín chỉ giữ lại từ giao dịch quốc tế giảm còn 30% để đảm bảo đủ tín chỉ đạt mục tiêu quốc gia. Doanh thu từ chuyển giao tín chỉ sẽ được tái đầu tư chiến lược vào các ngành khó giảm phát thải và hỗ trợ chuyển đổi công bằng.
Cách tiếp cận tích hợp, siết dần giới hạn bù trừ và điều chỉnh tỷ lệ giữ lại theo lộ trình sẽ giúp Việt Nam cân bằng giữa khả thi kinh tế ngắn hạn với mục tiêu môi trường và uy tín quốc tế dài hạn, hướng tới phát thải ròng bằng “0”.
Dự kiến, báo cáo cuối cùng sẽ hoàn thiện cuối tháng 9/2025, cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường carbon, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho vận hành thí điểm sắp tới.