
GS.TS Phạm Quý Nhân cho biết, Hội đang đi đúng hướng khi kiên trì theo đuổi ba trụ cột: Phản biện chính sách, kết nối nguồn lực và lan tỏa tri thức. Trong bối cảnh môi trường và tài nguyên nước đối mặt với nhiều thách thức mới, vai trò ấy càng trở nên thiết thực và kỳ vọng hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, ô nhiễm môi trường gia tăng và áp lực từ quá trình đô thị hóa ngày càng lớn, việc bảo vệ nguồn nước và môi trường sống không còn là câu chuyện riêng của ngành tài nguyên – môi trường, mà trở thành nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Trong tình hình đó, Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong công tác tư vấn chính sách, kết nối các chuyên gia, truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng, đồng thời tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và phản biện chính sách.
Đánh giá nhiệm kỳ 2019–2024 của Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, GS.TS Phạm Quý Nhân – chuyên gia đầu ngành về tài nguyên nước – cho rằng, Hội đã có những đóng góp thiết thực trong công tác tư vấn chính sách, nâng cao nhận thức cộng đồng và thúc đẩy các phong trào môi trường tại cơ sở. Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn chỉ ra các thách thức và gợi mở những định hướng chiến lược để Hội phát huy vai trò trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

PV: Thưa GS.TS Phạm Quý Nhân, với tư cách là chuyên gia đầu ngành về tài nguyên nước, ông đã và đang đóng góp như thế nào vào các hoạt động chuyên môn, tư vấn, hay phản biện chính sách của Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam?
GS. TS Phạm Qúy Nhân: Với tư cách là một hội viên đồng thời là chuyên gia trong lĩnh vực tài nguyên nước, tôi có nhiều cơ hội đồng hành cùng Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam trong các hoạt động chuyên môn, tư vấn và phản biện chính sách.
Việc công tác tại Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội cũng là nền tảng thuận lợi để tôi tham gia phản biện các quy hoạch lớn như Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, quy hoạch cho các lưu vực sông chính; đồng thời góp ý xây dựng Luật Tài nguyên nước (sửa đổi năm 2023) và các văn bản pháp luật liên quan. Tôi cũng tham gia thẩm định nhiều đề tài, dự án khoa học – công nghệ ở cả cấp trung ương và địa phương. Điều này giúp tôi có thêm góc nhìn thực tiễn trong quá trình đóng góp cho Hội.

Ngoài ra, tôi thường xuyên góp mặt trong các hội thảo chuyên đề do Hội tổ chức, nơi quy tụ các nhà khoa học, nhà quản lý và cộng đồng, nhằm trao đổi tri thức, cập nhật chính sách, cùng thúc đẩy mục tiêu sử dụng hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên nước – đúng với tôn chỉ, mục đích mà Hội đã đặt ra.
Bằng kinh nghiệm từ nhiều hoạt động, tôi hy vọng mình có thể góp phần nâng cao chất lượng quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên nước của đất nước, đồng thời thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của một hội viên tích cực của Hội.
PV: Ông đánh giá như thế nào về kết quả hoạt động của Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam trong nhiệm kỳ vừa qua, đặc biệt là vai trò và tầm ảnh hưởng của Hội trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ nguồn nước và môi trường sống? Theo ông, đâu là những điểm nổi bật và những lĩnh vực cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện?
GS. TS Phạm Qúy Nhân: Trong nhiệm kỳ 2019–2024, Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam đã khẳng định rõ vai trò là tổ chức xã hội – nghề nghiệp có ảnh hưởng tích cực trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ nguồn nước và môi trường sống. Hội đã phát huy tốt vai trò cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà nước, giới chuyên gia và người dân thông qua nhiều chương trình truyền thông, đào tạo và phong trào xã hội thiết thực.
Tiêu biểu là chương trình “Thứ Bảy đổi rác lấy quà tích điểm xanh” tại TP. HCM đã thu hút hơn 2.000 hộ dân tham gia, thu gom hơn 4 tấn rác tái chế và 100 kg chất thải nguy hại chỉ trong 4 tháng đầu năm 2022; dự án trồng 10 triệu cây xanh phát động năm 2023 tại Khu bảo tồn Láng Sen (Long An); chương trình “Mang rác về đất liền” phối hợp với Lữ đoàn 125 Hải quân cùng lễ ra quân “Vì Biển Đảo Xanh” nhằm truyền thông về bảo vệ môi trường biển và hỗ trợ ngư dân huyện Cần Giờ.

Song song với các hoạt động cộng đồng, Hội đã tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề có chiều sâu, góp phần định hướng chính sách và lan tỏa tri thức về môi trường. Nổi bật trong năm 2024–2025 là: Hội thảo về Quản lý tài nguyên nước tại Tây Nguyên, tập trung vào vấn đề khai thác nước ngầm và ứng phó hạn mặn; Hội thảo Chuyển đổi số và Chuyển đổi xanh trong lĩnh vực môi trường và nước sạch tại Thanh Hóa, góp phần thúc đẩy áp dụng công nghệ mới và kinh tế tuần hoàn tại địa phương và các tỉnh Bắc Trung Bộ,… với sự tham gia của các doanh nghiệp, nhà khoa học và cộng đồng dân cư, giúp nâng cao hiệu quả quản lý rác thải đô thị.
Riêng về tổ chức, Hội đã kiện toàn bộ máy, mở rộng quy mô hoạt động với việc thành lập thêm hai trung tâm chuyên môn và một Văn phòng đại diện tại TP. HCM, nâng tổng số đơn vị trực thuộc lên sáu. Hội cũng tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV (2019) và đang hoàn tất công tác nhân sự cho Đại hội lần V (2025–2030).
Cơ quan ngôn luận của Hội - Tạp chí Môi trường và Cuộc sống - tiếp tục phát triển mạnh, trở thành kênh truyền thông uy tín trong lĩnh vực nước sạch, môi trường và biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, Hội đã thể hiện rõ trách nhiệm xã hội khi kêu gọi hội viên đóng góp hơn 100 triệu đồng cho Quỹ vắc xin phòng COVID-19, hỗ trợ sản xuất bao bì sinh học thân thiện môi trường, góp phần phục vụ tuyến đầu chống dịch.
Tuy đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, Hội vẫn cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, mở rộng mạng lưới hội viên tại các địa phương, tăng cường đào tạo và truyền thông, đặc biệt là đẩy mạnh vai trò tư vấn, phản biện chính sách. Trong giai đoạn tới, Hội cần tiên phong trong thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các sáng kiến phù hợp với mô hình kinh tế tuần hoàn và phát thải thấp, nhằm đóng góp thiết thực cho sự nghiệp bảo vệ tài nguyên nước, môi trường và phát triển bền vững quốc gia.
PV: Trong thời đại chuyển đổi số và phát triển bền vững, ông nhìn nhận thế nào về việc ứng dụng công nghệ vào công tác bảo vệ tài nguyên nước? Hội có thể làm gì để thúc đẩy xu hướng này?
GS. TS Phạm Qúy Nhân: Chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong mọi lĩnh vực, bao gồm cả trong đó có lĩnh vực Tài nguyên nước. Chuyển đổi số trong lĩnh vực tài nguyên nước đang trở nên phổ biến ở các quốc gia phát triển và đang được đưa vào áp dụng ở Việt Nam.
Trong thời đại chuyển đổi số và phát triển bền vững, việc ứng dụng công nghệ vào công tác bảo vệ tài nguyên nước là xu thế tất yếu, vừa cấp bách vừa lâu dài. Công nghệ số giúp thay đổi căn bản cách chúng ta quản lý, giám sát và sử dụng nguồn nước – từ mô phỏng tài nguyên nước dưới đất, dự báo hạn hán – xâm nhập mặn, đến giám sát chất lượng nước theo thời gian thực và tối ưu hóa hệ thống cấp thoát nước.


Để thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực tài nguyên nước, Hội có thể đóng vai trò tham mưu, tư vấn theo hướng toàn diện và thực tiễn. Trước hết, cần góp phần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách nhằm khuyến khích chuyển đổi số. Cùng với đó là thúc đẩy đầu tư hạ tầng dữ liệu và công nghệ, đặc biệt là các hệ thống quan trắc – giám sát tự động, đồng bộ và hiện đại.
Một nhiệm vụ quan trọng khác là tăng cường đào tạo đội ngũ nhân lực số từ trung ương đến địa phương, giúp nâng cao năng lực vận hành, phân tích và ra quyết định dựa trên dữ liệu. Hội cũng nên thúc đẩy hợp tác công – tư và mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp cận công nghệ tiên tiến và nguồn lực tài chính. Cuối cùng, không thể thiếu việc nâng cao nhận thức cộng đồng, khuyến khích người dân tham gia vào hệ sinh thái số thông qua các ứng dụng cảnh báo sớm, chia sẻ dữ liệu địa phương và các nền tảng công dân số trong giám sát, bảo vệ tài nguyên nước.
PV: Trước những thách thức ngày càng lớn từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và đô thị hóa, theo ông, đâu là những cơ hội và thách thức lớn nhất mà Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam đang đối mặt? Trong bối cảnh đó, Hội nên ưu tiên những định hướng chiến lược nào và mỗi hội viên cần phát huy vai trò ra sao để nâng cao hiệu quả hoạt động, thích ứng kịp thời với tình hình mới?
GS. TS Phạm Qúy Nhân: Hiện nay, những thách thức lớn đang nổi lên rõ nét, từ tác động ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu với các hiện tượng cực đoan như hạn hán, xâm nhập mặn, mưa lớn gây ngập úng, cho đến ô nhiễm môi trường – đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước do rác thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng nhưng thiếu đồng bộ về hạ tầng cấp – thoát nước và xử lý nước thải cũng đang tạo áp lực nặng nề lên hệ sinh thái và nguồn nước. Bên cạnh đó, sự phối hợp liên ngành còn hạn chế, nguồn lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu, và sự chênh lệch về năng lực giữa các địa phương tiếp tục là những rào cản lớn trong việc triển khai hiệu quả các giải pháp bảo vệ tài nguyên nước và môi trường sống.

Bên cạnh những thách thức, nhiều cơ hội quan trọng cũng đang mở ra cho Hội và các hội viên:
* Chuyển đổi số và công nghệ xanh mở ra cơ hội trong việc hiện đại hóa công tác giám sát, quản lý và tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng.
* Chính sách của Đảng và Nhà nước đang ưu tiên phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính, tạo điều kiện thuận lợi cho Hội tham gia tư vấn, phản biện và triển khai các mô hình thí điểm.
* Hợp tác quốc tế ngày càng rộng mở, tạo cơ hội tiếp cận tri thức, công nghệ và nguồn tài trợ từ các tổ chức phát triển.
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đóng góp thiết thực cho lĩnh vực tài nguyên nước và môi trường, trong nhiệm kì tới, Hội nên ưu tiên một số định hướng chiến lược:
* Tăng cường vai trò phản biện chính sách, tư vấn khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực: Quy hoạch tài nguyên nước, cấp thoát nước đô thị, bảo vệ lưu vực, giảm thiểu ô nhiễm;
* Thúc đẩy ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số, trong giám sát môi trường, đánh giá tác động và truyền thông cộng đồng;
* Phát triển mạng lưới hội viên mạnh, gắn kết và chuyên môn hóa, theo từng lĩnh vực ưu tiên như: Nước sạch nông thôn, xử lý nước thải, bảo tồn nguồn nước, giáo dục môi trường;
* Xây dựng các mô hình mẫu tại địa phương, lồng ghép bảo vệ tài nguyên nước với sinh kế, du lịch bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu.
PV: Từ thực tiễn hoạt động của Hội, ông có đề xuất gì để phát huy hiệu quả hơn vai trò của các hội viên là chuyên gia, nhà khoa học nhằm nâng cao chất lượng tư vấn, phản biện và lan tỏa tri thức đến cộng đồng trong thời gian tới?
GS. TS Phạm Qúy Nhân: Để phát huy hơn nữa vai trò của hội viên là chuyên gia, nhà khoa học – nhằm nâng cao chất lượng tư vấn, phản biện và lan tỏa tri thức đến cộng đồng trong thời gian tới cần thực hiện các nhóm giải pháp:
Thứ nhất, xây dựng mạng lưới chuyên gia theo chủ đề (nước sạch nông thôn, nước ngầm, xử lý nước thải, đô thị thông minh, truyền thông môi trường...) để khai thác hiệu quả chuyên môn sâu, đảm bảo "đúng người - đúng việc" trong các hoạt động tư vấn, phản biện chính sách.


Thứ hai, hình thành các nhóm chuyên gia phản ứng nhanh (task force), sẵn sàng hỗ trợ cơ quan quản lý hoặc địa phương khi có sự cố về môi trường - tài nguyên nước.
Thứ ba, thiết lập cơ chế khuyến khích tham gia tư vấn, phản biện, ghi nhận, vinh danh chuyên gia có đóng góp tiêu biểu trong hoạt động phản biện, đánh giá, phổ biến kiến thức.
Thứ tư, định kỳ tổ chức các diễn đàn chuyên gia, tọa đàm, hội thảo khoa học, từ đó phát hiện vấn đề thực tiễn, đề xuất giải pháp chính sách sát với nhu cầu thực tế.
Thứ năm, khuyến khích chuyên gia tham gia truyền thông cộng đồng, viết bài phổ biến kiến thức trên Tạp chí Môi trường và Cuộc sống, diễn đàn của Hội hoặc mạng xã hội.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác Quốc tế, phối hợp với các trường đại học, địa phương tổ chức chương trình giáo dục cộng đồng, lồng ghép kiến thức về tài nguyên nước và môi trường vào trường học, hội phụ nữ, nông dân, thanh niên.
Thứ bảy, đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động chuyên môn: Ứng dụng nền tảng hội thảo trực tuyến, chia sẻ tài liệu số, xây dựng cơ sở dữ liệu mở về tài nguyên nước để các hội viên truy cập, đóng góp và sử dụng chung. Tạo điều kiện cho các chuyên gia trẻ tiếp cận với công nghệ mới, mô hình số, công cụ phân tích dữ liệu – từ đó nâng cao chất lượng tư vấn, giám sát, đánh giá chính sách.
Cuối cùng, hỗ trợ xây dựng mô hình điểm do chuyên gia chủ trì: Hội cần tạo điều kiện để các nhà khoa học chủ động đề xuất mô hình thí điểm tại địa phương – như mô hình quản lý nước sạch cộng đồng, mô hình thích ứng hạn – mặn, mô hình giám sát chất lượng nước tự động... Từ đó, tổng kết bài học và nhân rộng các mô hình hiệu quả ra các tỉnh, thành khác thông qua sự dẫn dắt của chuyên gia.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông! Chúc giáo sư sức khỏe, tiếp tục có nhiều đóng góp quý báu cho sự nghiệp bảo vệ môi trường và phát triển bền vững tài nguyên nước.