Quy hoạch gồm 4 điều, có 6 mục lớn đề cập nhiều quy định mới
Quyết định phê duyệt Quy hoạch điện VIII gồm 4 điều. Trong đó, có điều 1 gồm 6 mục lớn quy định các vấn đề: Phạm vi, ranh giới quy hoạch; Quan điểm, mục tiêu phát triển; Phương án phát triển điện lực quốc gia; Định hướng bố trí sử dụng đất cho phát triển các công trình điện lực và các hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo tồn sinh thái, cảnh quan, di tích; Danh mục các dự án quan trọng, ưu tiên đầu tư của ngành điện và thứ tự ưu tiên thực hiện; các giải pháp, nguồn lực thực hiện Quy hoạch.
Tại Quyết định, Thủ tướng Chính phủ cũng giao nhiệm vụ cụ thể cho Bộ Công Thương, các bộ, ngành, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành trực thuộc Trung ương; Các tập đoàn năng lượng Nhà nước như EVN, PVN, TKV trong việc tổ chức thực hiện.
Theo đó, Bộ Công Thương chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu, tài liệu, hệ thống sơ đồ, bản đồ và cơ sở dữ liệu trong Hồ sơ quy hoạch, bảo đảm thống nhất với nội dung của Quyết định; Tổ chức công bố quy hoạch theo quy định và triển khai thực hiện Quyết định gắn với chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của pháp luật, xây dựng
Kế hoạch thực hiện quy hoạch để triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; Tổ chức đánh giá thực hiện quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch.
Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương hoàn thiện xây dựng và trình Chính phủ Luật Điện lực sửa đổi và Luật về năng lượng tái tạo để trình Quốc hội trong năm 2024. Trình Chính phủ ban hành các chính sách về mua bán điện trực tiếp.
Đồng thời, chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành trực thuộc Trung ương tiếp tục làm việc với các chủ đầu tư, rà soát kỹ các quy định của pháp luật, các cam kết, thỏa thuận giữa các bên để xử lý dứt điểm các dự án đang gặp khó khăn trong triển khai, báo cáo Thủ tướng Chính phủ các vấn đề vượt thẩm quyền.
Quan điểm phát triển của Quy hoạch Điện VIII hướng tới nguồn điện và lưới điện truyền tải ở cấp điện áp từ 220kV trở lên, công nghiệp và dịch vụ về năng lượng tái tạo, năng lượng mới trên lãnh thổ Việt Nam thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, bao gồm cả các công trình liên kết lưới điện với các quốc gia láng giềng.
Quy hoạch được xây dựng với quan điểm phù hợp với chủ trương, chiến lược phát triển ngành năng lượng Việt Nam của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các cam kết quốc tế.
Với quan điểm điện là ngành hạ tầng quan trọng, vì vậy phát triển điện lực phải đi trước một bước tạo nền tảng thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao đời sống của Nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Quy hoạch phát triển điện phải có tầm nhìn dài hạn, hiệu qủa, bền vững và đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trước hết. Phát triển điện lực theo nguyên tắc tối ưu tổng thể các yếu tố về nguồn điện, truyền tải điện, phân phối điện, sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả, có lộ trình phù hợp đi đôi với bảo vệ tài nguyên, môi trường và chuyển đổi mô hình kinh tế, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia với chi phí thấp nhất.
Quy hoạch phát triển điện phải dựa trên cơ sở khoa học, có tính kế thừa, mang tính động và mở nhưng không hợp thức hóa những sai phạm. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước, kết hợp với xuất, nhập khẩu hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng.
Coi phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng mới là cơ hội để phát triển tổng thể hệ sinh thái công nghiệp năng lượng. Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế để phát triển nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị trường về giá bán điện, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia đầu tư, sử dụng điện và đáp ứng yêu cầu phát triển của các vùng, miền.
Phát triển điện phải bám sát xu thế phát triển của khoa học – công nghệ trên thế giới, nhất là về năng lượng tái tạo, năng lượng mới, gắn với quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp.
Chuyển dịch năng lượng phải phù hợp với xu hướng quốc tế và đảm bảo bền vững, công bằng, công lý. Mục tiêu tổng quát Trên cơ sở quan điểm, Quy hoạch điện VIII xác định mục tiêu phát triển tổng quát là: Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng công bằng gắn với hiện đại hóa sản xuất, xây dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải, phát triển khoa học công nghệ của thế giới; Hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới. Đồng thời đưa ra các mục tiêu cụ thể như: Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; chuyển đổi năng lượng công bằng; phát triển hệ sinh thái công nghiệp và dịch vụ năng lượng tái tạo…
Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia Quy hoạch điện VIII đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021 – 2030, khoảng 6,5 – 7,5%/năm trong giai đoạn 2031 – 2050; Điện thương phẩm vào năm 2025 đạt khoảng 335,0 tỷ kWh; năm 2030 khoảng 505,2 tỷ kWh; đến năm 2050 khoảng 1.114,1 – 1.254,6 tỷ kWh.
Điện sản xuất và nhập khẩu vào năm 2025 khoảng 378,3 tỷ kWh; năm 2030 khoảng 567,0 tỷ kWh; đến năm 2050 khoảng 1.224,3 – 1.378,7 tỷ kWh. Công suất cực đại của hệ thống năm 2025 là khoảng 59.318 MW; năm 2030 khoảng 90.512 MW; đến năm 2050 khoảng 185.187 – 208.555MW.
Đồng thời, bảo đảm cung cấp điện an toàn, tin cậy, đáp ứng tiêu chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với vùng phụ tải đặc biệt quan trọng. Đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện năng thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.
Việt Nam phấn đấu đến năm 2030 có 50% các tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu (phục vụ tiêu thụ tại chỗ, không bán điện vào hệ thống điện quốc gia). Về chuyển đổi năng lượng công bằng Quy hoạch điện VIII ưu tiên phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện, đạt tỷ lệ khoảng 30,9 – 39,2% vào năm 2030, hướng tới mục tiêu tỷ lệ năng lượng tái tạo 47% với điều kiện các cam kết theo Tuyên bố chính trị về thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với Việt Nam (JETP) được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất.
Định hướng đến năm 2050 tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5 – 71,5%. Kiểm soát mức phát thải khí nhà kính từ sản xuất điện đạt khoảng 204 – 254 triệu tấn năm 2030 và còn khoảng 27 – 31 triệu tấn vào năm 2050. Hướng tới đạt mức phát thải đỉnh không quá 170 triệu tấn vào năm 2030 với điều kiện các cam kết theo JETP được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất.
Đồng thời phải xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, đủ khả năng tích hợp, vận hành an toàn hiệu quả nguồn năng lượng tái tạo quy mô lớn. Phát triển hệ sinh thái công nghiệp và dịch vụ năng lượng tái tạo Theo Quy hoạch điện VIII, dự kiến đến 2030, hình thành 2 trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng bao gồm sản xuất, truyền tải và tiêu thụ điện; công nghiệp chế tạo thiết bị năng lượng tái tạo, xây dựng, lắp đặt, dịch vụ liên quan, xây dựng hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tái tạo tại các khu vực có nhiều tiềm năng như Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ khi có các điều kiện thuận lợi.
Phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo và sản xuất năng lượng mới phục vụ xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2030, quy mô công suất xuất khẩu điện đạt khoảng 5.000 – 10.000MW.
Tầm nhìn dài hạn, quy hoạch ưu tiên phát triển mạnh năng lượng tái tạo
Về tiềm năng/trữ lượng tài nguyên, theo nhìn nhận của các chuyên gia: Quy hoạch lần này đã xem xét, cập nhật các nghiên cứu, đánh giá về tiềm năng/trữ lượng, khả năng khai thác của các loại tài nguyên năng lượng trong nước, từ đó xác định những thách thức lớn khi Việt Nam sẽ ngày càng phụ thuộc hơn vào nguồn năng lượng nhập khẩu.
Bài toán quy hoạch đã đưa ra mục tiêu nhằm giảm phụ thuộc năng lượng nhập khẩu, tăng chủ động tự cung, tự cấp bằng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo trong nước.
Với tầm nhìn dài hạn, Quy hoạch đã tăng cao quy mô các nguồn năng lượng tái tạo, vốn có tiềm năng lớn của Việt Nam (tiềm năng kỹ thuật 600 GW điện gió ngoài khơi, trên 960 GW điện mặt trời các loại…).
Quy hoạch cũng đã nêu và nhận định về tình hình nghiên cứu ứng dụng quốc tế, cũng như dự kiến sử dụng một số dạng năng lượng mới (khí trộn, hydro, amoniac trong tương lai) và nhận định về các công nghệ mới (như lưu trữ năng lượng, linh hoạt hệ thống điện).
Trên cơ sở bài toán tối ưu, Quy hoạch đã đưa ra tổ hợp 11 kịch bản phát triển, lựa chọn và đề xuất kịch bản có chi phí cực tiểu, đáp ứng mục tiêu về tăng cường tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo và giảm ô nhiễm khí nhà kính.
Theo đó, sẽ không xây dựng thêm nhiệt điện than sau năm 2030, từng bước trộn và chuyển sang nhiên liệu sinh khối, hoặc amoniac; ưu tiên phát triển điện khí và cũng định hướng chuyển dần sang đốt trộn nhiên liệu, tiến tới đốt hoàn toàn hydro, amoniac trong dài hạn và sau năm 2035 không phát triển nguồn điện LNG mới.
Đặc biệt, Quy hoạch đã đưa ra các phương án phụ tải và phương án phát triển nguồn khác nhau (có cân nhắc đến nhiều khía cạnh, quan điểm phát triển), cân bằng các loại nguồn; giảm truyền tải xa; tăng quy mô các nguồn điện mặt trời, gió, sinh khối và ưu tiên điện mặt trời tự sản, tự tiêu (không nối lưới).
Chương trình phát triển nguồn điện được chắt lọc qua nhiều phương án thay đổi các thông số đầu vào, bổ sung các yếu tố “tĩnh”, “mở” và “động” trong bài toán quy hoạch. Trong Quy hoạch có 3 kịch bản phát triển nguồn điện theo hướng chuyển đổi năng lượng: Kịch bản cơ sở, kịch bản cao và kịch bản rủi ro. Trong đó, kịch bản phụ tải cao và xét tới một số nguồn điện thường chậm tiến độ được cho là nhiều khả năng xảy ra. Kịch bản phụ tải cao được xét đến trong bối cảnh tương lai khi nhiều hộ tiêu thụ công nghiệp sẽ chuyển dịch theo hướng “điện khí hóa”, giảm tiêu thụ các loại năng lượng hóa thạch (xe điện, công nghiệp thép “xanh”...), cùng với sử dụng năng lượng ngày càng tiết kiệm và hiệu quả hơn. Theo đó, nguồn điện trong kịch bản cao như sau:
Đến năm 2030: Tuy quy mô nhiệt điện than tăng lên đến 30,1 GW (nhưng thực tế hiện nay tổng công suất điện than đã là 25,8 GW, chỉ còn hơn 4,3 GW các công trình đang được xây dựng); tỷ trọng nhiệt điện than trong cơ cấu nguồn giảm từ gần 29% năm 2020 xuống 20,5% năm 2030. Điện sản xuất từ nguồn điện than giảm nhanh tỷ trọng, năm 2020 từ 46,5% xuống còn 34,8% vào năm 2030.
Trong khi đó, tỷ trọng nguồn điện khí tăng từ 10,2% (7,08 GW) năm 2020 lên 21,8% (32 GW) năm 2030, cho thấy sự chuyển dịch sang nhiên liệu ít phát thải khí nhà kính hơn, đồng thời linh hoạt hỗ trợ tốt hơn cho nguồn năng lượng tái tạo (NLTT). Điện sản xuất từ nguồn điện khí tăng tỷ trọng, năm 2020 từ 12,5% lên tới 25,5% vào năm 2030.
Các nguồn điện NLTT (bao gồm thủy điện, điện mặt trời, gió, sinh khối) tăng từ 38,2 GW năm 2020 lên đến 73,78 GW, nhất là các nguồn điện gió, mặt trời, sinh khối… tăng từ 17,4 GW năm 2020 lên đến hơn 44,4 GW năm 2030; tỷ trọng tổng các nguồn NLTT trong cơ cấu công suất chiếm tới 50,3% vào năm 2030, mặc dù tỷ trọng thủy điện giảm mạnh do tiềm năng còn ít (từ 30% giảm còn 20%). Điện sản xuất từ nguồn điện NLTT chiếm 36% vào năm 2030.
Đến năm 2050: Nguồn điện than sau năm 2030 không phát triển thêm, vì vậy, đến năm 2050 công suất chỉ chiếm 4,5% trong tổng cơ cấu công suất (25,6/573,1 GW). Sản lượng điện từ nguồn này chỉ chiếm 5,3% trong tổng sản lượng điện, nhưng trong giai đoạn từ 2030 trở đi đã dự kiến từng bước chuyển nhiên liệu than sang các loại nhiên liệu không phát thải (như sinh khối, hoặc amoniac). Năm 2050 không còn sử dụng than cho sản xuất điện.
Nguồn điện khí được phát triển lên đến 40,3 GW vào năm 2035 và sau đó không phát triển thêm; tỷ trọng công suất nguồn điện khí chỉ còn chiếm 7% vào năm 2050, tuy sản lượng điện vẫn chiếm tới 15,7% tổng điện phát, nhưng đã dự kiến chuyển dần sang khí trộn, hydro; các nguồn nhiệt điện khí linh hoạt tăng lên, chiếm tới 8% tổng cơ cấu, nhưng số giờ chạy thấp, sản lượng không lớn, rất cần thiết để tăng hiệu quả nguồn NLTT.
Tổng công suất các nguồn NLTT (gồm cả thủy điện) năm 2050 lên tới gần 400 GW, chiếm 69,8% tổng công suất nguồn điện, thể hiện tỷ trọng nguồn điện được duy trì và phát triển nguồn này rất cao. Điện năng từ tổng các nguồn NLTT chiếm tới 80,5% tổng sản xuất điện.
Các nguồn điện dự kiến đã được bố trí tiến độ với tiêu chí cân bằng tối đa nguồn - phụ tải nội miền, giảm khối lượng xây dựng lưới truyền tải.
Quy hoạch điện VIII đã đưa cụ thể danh mục các dự án nguồn điện lớn, ưu tiên quan trọng cấp quốc gia. Đối với các nguồn NLTT (điện gió, mặt trời, thủy điện, điện sinh khối, điện rác) và các nguồn khác, dự thảo đã đưa ra tổng quy mô công suất phát triển các nguồn điện gió, mặt trời theo phạm vi 6 vùng và theo chu kỳ 5 năm, thuận tiện cho việc lập kế hoạch, điều hành, điều chỉnh và giám sát thực hiện quy hoạch.
Đây là một quy hoạch được thiết kế mang đậm chất chuyển dịch năng lượng - Định hướng chuyển đổi dần nhiên liệu khỏi nhiên liệu hóa thạch từ các nhà máy điện than, điện khí sang biomass, amoniac, khí trộn, hydro… vào cuối vòng đời công trình, trước năm 2050.
Mặc dù có những thách thức là hiện nay một số công nghệ nhiên liệu sạch còn đang ở quy mô nghiên cứu, thử nghiệm và ứng dụng ở một vài lĩnh vực, một vài quốc gia, chưa thương mại hóa và phổ biến, giá thành còn cao, chưa cạnh tranh với các loại hiện hữu, nhưng xu thế là các công nghệ đó sẽ phát triển nhanh cùng với giảm giá thành. Điều thuận lợi là không riêng Việt Nam mà có gần 150 quốc gia đã cam kết chống biến đổi khí hậu bằng đưa phát thải khí nhà kính về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Quy hoạch điện VIII được phê duyệt nhất quán quan điểm, điện là ngành hạ tầng quan trọng, phát triển điện lực phải đi trước một bước tạo nền tảng thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao đời sống Nhân dân và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế để phát triển nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị trường về giá bán điện, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia đầu tư, sử dụng điện và đáp ứng yêu cầu phát triển của các vùng, miền.