Thúc đẩy ngành lâm nghiệp phát triển vượt bậc nhờ công nghệ sinh học

Minh Châu|10/09/2020 07:31
Theo dõi Môi trường & Cuộc sống trên

Moitruong.net.vn – Chương trình nghiên cứu trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học có mục tiêu tạo ra các giống cây trồng lâm nghiệp, các chế phẩm công nghệ sinh học mới có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.

Chương trình nghiên cứu trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học đã chọn tạo được nhiều giống keo, bạch đàn mới, có năng suất và chất lượng cao, bao gồm 13 giống mới được công nhận là 4 dòng keo tam bội X101, X102, X201, X205; 7 dòng keo lai tự nhiên BB055, BV350, BV376, BV434, BV523, BV584 và BV586 và 2 dòng bạch đàn lai CU98 và CU82.

Bên cạnh đó, còn có 3 dòng bạch đàn trắng kháng bệnh đốm lá (mức kháng cấp C0), 8 dòng bạch đàn lai sinh trưởng nhanh (UC16, UC51, CU113, CU123, UC52, CU182, UE72, UC55), 4 dòng bạch đàn lai UU cho chiều dài sợ gỗ vượt từ 14% so với đối chứng, 40 dòng bạch đàn lai UP chuyển gen EcHB1 cho chiều dài sợi gỗ, 11 dòng T0 chuyển gen bạch đàn GA20/GS21 sinh trưởng nhanh, 8 dòng xoan ta chuyển gen GA20, GA21 sinh trưởng nhanh và mang gen Cl1 chất lượng gỗ tốt rất có triển vọng.

Hàng chục giống lâm nghiệp mới đã được công nhận trong thời gian triển khai chương trình nghiên cứu trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học

Chương trình cũng đã triển khai các dự án sản xuất thử nghiệm vi nhân giống bạch đàn và keo với sản phẩm là qui trình công nghệ vi nhân giống cây bạch đàn, keo qui mô công nghiệp được hoàn thiện ứng dụng thành công tại Quảng Ninh, Yên Bái, Sơn La, Tuyên Quang, Bình Định. Khoảng 30 triệu cây giống bạch đàn, keo bằng công nghệ mô đã được cung cấp ra thị trường.

Về lĩnh vực vi sinh, đã nghiên cứu thành công 4 loại chế phẩm vi sinh, phân bón hữu cơ chức năng phục hồi, ổn định và nâng cao độ phì của đất trồng góp phần tăng khả năng giữ nước ở vùng đất trồng cây lâm nghiệp, phân giải chất hữu cơ để giảm nguy cơ cháy rừng, nổi bật là 2 chế phẩm vi sinh vật hỗn hợp dùng cho thông (MF1) và bạch đàn (MF2).

Từ chương trình, gần 20 thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành công nghệ sinh học đã được đào tạo ở các nước tiên tiến như Úc, Nhật Bản, Đức, Thụy Điển và hàng trăm kỹ thuật viên cho các cơ sở sản xuất. Thông qua các dự án khoa học công nghệ cũng đã tăng cường trang thiết bị cho các phòng thí nghiệm công nghệ sinh học của các đơn vị trực thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và Trường Đại học Lâm nghiệp.

Công nghệ sinh học ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi mặt của sản xuất nông lâm nghiệp trên thế giới, nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ sinh học trong sản xuất nông lâm nghiệp nên năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 11/2006/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020”.

Với định hướng ứng dụng công nghệ vi sinh trong lâm nghiệp, tập trung đẩy mạnh nghiên cứu sản xuất quy mô công nghiệp các chế phẩm vi sinh vật tăng cường phân giải lân, cố định đạm và phục hồi hệ vi sinh vật, độ phì đất rừng, vi sinh vật phân hủy vật liệu hữu cơ sau khai thác rừng, vật liệu cháy dưới tán rừng.

Ngoài ra, nghiên cứu sản xuất các chế phẩm vi sinh, chế phẩm sinh học, chế phẩm sinh học nội sinh để kích kháng, phòng trừ sâu, bệnh hại, tăng năng suất rừng trồng cũng là nhiệm vụ quan trọng.

Minh Châu

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Thúc đẩy ngành lâm nghiệp phát triển vượt bậc nhờ công nghệ sinh học