Ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi nhằm giảm phát thải khí nhà kính
Ngành chăn nuôi hiện nay đang chịu áp lực ngày càng lớn từ về việc giảm thiểu lượng khí thải và chuyển sang các phương thức sản xuất bền vững hơn. Đây không chỉ là một vấn đề môi trường mà còn liên quan đến sức khỏe cộng đồng, nền kinh tế và sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp.

P/s: Trong những năm gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu tại nhiều quốc gia. Các nghiên cứu khoa học và báo cáo chỉ ra rằng, ngành chăn nuôi là một trong những tác nhân chính gây phát thải khí nhà kính (GHG), góp phần vào sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu và tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái. Khí methane (CH₄) từ quá trình tiêu hóa của gia súc, nitơ oxit (N₂O) từ phân bón và chất thải động vật là những tác nhân chính trong phát thải khí nhà kính từ ngành chăn nuôi. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng không khí mà còn tác động nghiêm trọng đến sự ổn định của hệ sinh thái, nguồn nước và sức khỏe cộng đồng.
Mặc dù Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng và thực thi các chính sách, luật pháp liên quan đến bảo vệ môi trường và giảm thiểu phát thải khí nhà kính, ngành chăn nuôi vẫn tiếp tục phát thải một lượng lớn khí nhà kính mỗi năm. Các điều luật về bảo vệ môi trường như Luật Bảo vệ Môi trường, các quy định về khí thải và chất thải của ngành chăn nuôi đã được ban hành. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc triển khai và kiểm soát các quy định này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các trang trại, đặc biệt là các cơ sở chăn nuôi quy mô nhỏ và vừa, vẫn chưa có đủ năng lực và nguồn lực để áp dụng các công nghệ xử lý chất thải hiệu quả. Việc thay đổi thói quen sản xuất, chuyển đổi công nghệ xanh hay áp dụng các mô hình chăn nuôi bền vững còn hạn chế.
Với tốc độ đô thị hóa ngày càng cao và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm từ chăn nuôi tăng nhanh, vấn đề phát thải khí nhà kính từ ngành chăn nuôi sẽ càng trở nên nghiêm trọng hơn trong tương lai nếu không có những biện pháp giải quyết kịp thời và hiệu quả. Các thách thức trong việc giảm phát thải khí nhà kính từ ngành chăn nuôi không chỉ đến từ yếu tố kỹ thuật, công nghệ mà còn liên quan đến nhận thức, chính sách và hành vi của người chăn nuôi.
Trước thực tế đó, Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống nhận thấy việc ứng dụng các mô hình phát triển bền vững, đặc biệt là kinh tế tuần hoàn trong ngành chăn nuôi, là một giải pháp hiệu quả và cần thiết để giảm thiểu phát thải khí nhà kính và bảo vệ môi trường. Kinh tế tuần hoàn là mô hình sản xuất, tiêu dùng và xử lý chất thải theo nguyên lý tái sử dụng, tái chế, giảm thiểu lãng phí, và phát huy tối đa giá trị của tài nguyên. Trong ngành chăn nuôi, kinh tế tuần hoàn có thể được ứng dụng thông qua các giải pháp như tái chế chất thải động vật thành phân bón hữu cơ, sử dụng công nghệ biogas để xử lý chất thải và đồng thời sản xuất năng lượng tái tạo, hay kết hợp chăn nuôi với trồng trọt để tối ưu hóa tài nguyên và giảm phát thải.
Với những lý do trên, Tạp chí đã quyết định thực hiện Chuyên đề “Ứng dụng kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi nhằm giảm phát thải khí nhà kính”. Mục đích của chuyên đề nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc và toàn diện về các ứng dụng của kinh tế tuần hoàn trong ngành chăn nuôi, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể để giảm thiểu phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành chăn nuôi tại Việt Nam. Chuyên đề sẽ phân tích những thách thức trong việc triển khai các mô hình kinh tế tuần hoàn, những lợi ích mà nó mang lại, cũng như đưa ra các khuyến nghị về chính sách và chiến lược nhằm tăng cường áp dụng các giải pháp này trong ngành chăn nuôi.
Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống hy vọng sẽ góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của kinh tế tuần hoàn, không chỉ trong việc giảm phát thải khí nhà kính mà còn trong việc tạo dựng một ngành chăn nuôi phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào công cuộc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Bài 1: Phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi: Thực trạng và thách thức
Biến đổi khí hậu không còn là một viễn cảnh xa xôi mà đã trở thành thực tế nghiệt ngã của thế kỷ 21. Sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu, các hiện tượng thời tiết cực đoan và những hệ lụy nghiêm trọng đối với hệ sinh thái, kinh tế, xã hội đều có chung một nguyên nhân cốt lõi: sự gia tăng của khí nhà kính (GHG – Greenhouse Gases) trong khí quyển.

Khí nhà kính là thành phần dạng khí và có khả năng hấp thụ các bức xạ sóng dài (bức xạ hồng ngoại) trong dải bước sóng của Trái Đất gây ra, được phản xạ từ bề mặt Trái Đất khi được chiếu sáng bằng ánh sáng mặt trời, rồi phân tán nhiệt lại cho Trái Đất và gây nên hiệu ứng nhà kính.
Khí nhà kính chủ yếu bao gồm: hơi nước, CO₂, CH₄, N₂O, O₃, các khí CFC. Trong hệ mặt trời, bầu khí quyển của Sao Kim, Sao Hỏa và Titan cũng chứa các khí gây hiệu ứng nhà kính. Các loại khí nhà kính ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiệt độ của Trái Đất, nếu không có chúng, nhiệt độ bề mặt Trái Đất trung bình sẽ lạnh hơn hiện tại khoảng 33 °C.
Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, con người đã khai thác ồ ạt nhiên liệu hóa thạch, phá rừng và phát triển công nghiệp với tốc độ chóng mặt, vô tình đẩy hệ sinh thái toàn cầu vào một quỹ đạo nóng lên đáng báo động. Theo báo cáo mới nhất của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), nếu không có hành động mạnh mẽ, nhiệt độ toàn cầu có thể tăng vượt ngưỡng 1,5°C trong vài thập kỷ tới, gây ra những thảm họa không thể đảo ngược.
Trong khi việc đốt nhiên liệu hóa thạch thường được cho là thủ phạm chính thì một tác nhân chính khác gây ra biến đổi khí hậu thường không được chú ý: ngành chăn nuôi. Việc chăn nuôi để sản xuất lương thực có tác động đáng kể đến môi trường, bao gồm phát thải khí nhà kính, phá rừng, sử dụng nước và đất.
Chăn nuôi – Một trong những
“thủ phạm chính”
Ít ai ngờ rằng, chăn nuôi – một ngành tưởng chừng chỉ liên quan đến nông nghiệp và thực phẩm, đóng vai trò quan trọng trong an ninh lương thực và sinh kế của hàng tỷ người lại là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất toàn cầu.
Theo báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), ngành chăn nuôi chiếm khoảng 14,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu (tính đến năm 2013) - con số tương đương với lượng khí thải từ toàn bộ phương tiện giao thông trên thế giới cộng lại.
Quá trình chăn nuôi tạo ra ba loại khí nhà kính chính: methane (CH₄), nitơ oxit (N₂O) và carbon dioxide (CO₂). Trong các loại khí nhà kính do chăn nuôi phát thải, methane (CH₄) đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Khí này chủ yếu sinh ra từ quá trình tiêu hóa của động vật nhai lại như bò, cừu, dê – khi vi sinh vật trong dạ cỏ phân hủy thức ăn, chúng giải phóng lượng lớn methane vào khí quyển. So với carbon dioxide (CO₂), methane có khả năng giữ nhiệt mạnh gấp 25 lần, nghĩa là dù tồn tại trong khí quyển với thời gian ngắn hơn, tác động của nó đối với biến đổi khí hậu lại nghiêm trọng hơn nhiều.

Tiến sĩ Nguyễn Thế Hinh - Phó Ban quản lý các dự án Nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: Số liệu thống kê năm 2022 cho thấy, Việt Nam có khoảng 8 triệu con trâu bò, 24,7 triệu con lợn và 380 triệu con gia cầm (GSO 2018 - 2023). Theo Chiến lược chăn nuôi được phê duyệt, năm 2030 Việt Nam sẽ có khoảng 10 triệu trâu bò, 30 triệu lợn và khoảng 670 triệu con gia cầm. Kết quả kiểm kê khí nhà kính cho thấy ngành chăn nuôi hàng năm thải ra khoảng 18,5 triệu tấn CO2e, chiếm 19% lượng phát thải trong nông nghiệp.

Phát thải khí methane từ phân động vật gây ra trong điều kiện yếm khí trong các hầm khí sinh học (biogas) hoặc ở những nơi chứa phân động vật số lượng lớn nhưng điều kiện thông khí kém. Do vậy, phát thải khí CH4 lớn nhất thường xảy ra đối với các động vật chăn nuôi tập trung và sử dụng nhiều nước để làm vệ sinh chuồng trại như chăn nuôi lợn thịt và bò sữa dẫn đến phân động vật hòa lẫn vào nước dưới dạng lỏng, tạo điều kiện cho vi khuẩn kị khí hoạt động. Đối với động vật chăn nuôi quảng canh thì phát thải khí methane từ phân động vật là không đáng kể do phân động vật thải ra thường được phân hủy trong điều kiện hiếu khí.

Phát thải khí N2O từ phân động vật xảy ra trong điều kiện phức tạp hơn, bắt đầu từ quá trình phân hủy các hợp chất chứa Nitơ trong phân động vật thành NO2 và NO3 xảy ra trong điều kiện hiếu khí do vi khuẩn Nitrosomonas và Nitrobacter. Sau đó, vi khuẩn sẽ tiếp tục khử NO2 và NO3 thành N2O và N2 trong điều kiện yếm khí. Trong môi trường có tính acid cao và độ ẩm thấp thì tỷ lệ N2O sinh ra lớn hơn nhiều và ngược lại. Lượng phát thải khí N2O sinh ra nhiều khi bón phân chuồng trên đất có tính acid cao và độ ẩm thấp.
Tương tự Tiến sĩ Nguyễn Thế Hinh, PGS.TS Cao Thế Hà - Trường ĐH Việt Nhật (VJU) & TT CNMT&PTBV (CETASD) - ĐHQG Hà Nội (VNU) cũng thông tin: Hàng năm, chăn nuôi lợn là nguồn phát thải khí nhà kính hàng đầu trong chăn nuôi. 1 con lợn trung bình 54 kg thải 0,36 kg VS-hữu cơ, phát thải khí nhà kính: 1,8 kgCO2/1 kgVS phân lợn. Dự kiến đến năm 2030, số lượng đầu lợn lên đến 30 triệu con tương đương với việc 5.913.000 tấn CO2/năm sẽ được thải ra môi trường.
Chất thải chăn nuôi được coi là nguồn nguyên liệu đầu vào, là tiềm năng phát triển năng lượng khí sinh học (KSH). KSH tạo ra từ chất thải có thể là chìa khóa để thúc đẩy năng lượng bền vững trong tương lai. Hiện nay, ở Việt Nam có hàng nghìn hệ thống KSH được lắp đặt quy mô hộ gia đình sử dụng cho mục đích đun nấu, một số hệ thống máy phát điện KSH được lắp đặt phân tán ở các trang trại chăn nuôi thay thế cho máy phát chạy bằng dầu diesel.

Tại nước ngoài, chất thải trong chăn nuôi sau khi được thu gom sẽ được đưa đến khu chứa thải để xử lý làm phân compost. Phương thức xử lý là ủ yếm khí, ủ hiếu khí, xử lý Nito, photpho,… Nguồn chất thải này sau khi được xử lý sẽ được sử dụng làm phân bón, sản xuất năng lượng tái tạo… Đối với chất lỏng trong chăn nuôi sẽ được gom về bồn, bể hoặc ao hồ để tách loại phần rắn. Trong đó, chất thải rắn sẽ được xử lý yếm khí (biogas) hoặc hiếu khí, xử lý Nito, photpho…Còn lại nước thải qua xử lý sẽ được trả về nguồn nước ngầm, bơm vào nguồn…
Còn tại Việt Nam hiện nay, chương trình biogas được triển khai rất hiệu quả, COD đầu ra lên tới 600-1500 mg/L. Nếu nguồn này được khai thác và vận hành tốt, ô nhiễm hữu cơ giảm 80-90%.
Bên cạnh những hiệu quả tích cực của việc xử lý chất thải qua hầm biogas thì vẫn còn những bất cập. Hiện nay, rất nhiều hộ gia đình, hộ chăn nuôi chọn thể tích hầm biogas chưa phù hợp (thường HRT ~40 ngày). Số lượng chất thải quá lớn nhưng hầm chứa không phù hợp đã dẫn đến việc đầy tràn, giảm thể tích hoạt động, thậm chí là rách, thủng gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
PGS.TS Cao Thế Hà - Trường ĐH Việt Nhật (VJU) & TT CNMT&PTBV (CETASD) - ĐHQG Hà Nội (VNU)
Các hầm biogas vẫn còn gây ra hiện tượng ô nhiễm không khí. Ví dụ như tỉnh Hà Nam, một số cán bộ tại các xã trên địa bàn tỉnh đã phản ánh 30% số hộ nuôi lợn sử dụng các hầm chứa biogas để bốc mùi hôi và xả thải không đúng quy định làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước khu vực gần khu chăn nuôi. Ngoài ra, xử lý sau biogas vẫn là vấn đề phải nhắc đến. Sau biogas thường dùng các hệ tự nhiên (ao, hồ) chưa rõ thông số thiết kế, kém hiệu quả. Đồng thời, thiết kế hầm chứa chất thải còn phụ thuộc vào khả năng có đất, hạn chế nhất là tại các khu vực Đồng bằng sông Hồng. Hầu hết, biogas hiện nay không đạt QCVN 62-MT:2016 (B/A).
Nhận định bên cạnh những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, ngành chăn nuôi cũng đặt ra nhiều thách thức cho vấn đề bảo vệ môi trường và phát thải khí nhà kính, bà Phạm Thị Xuân, Phó chủ tịch thường trực Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam cho biết: “Lĩnh vực chăn nuôi đóng góp 25 - 26% vào GDP của ngành nông nghiệp mỗi năm và là một trong những phân ngành nông nghiệp phát triển nhanh nhất, kể cả trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Hơn 1 thập kỷ qua, lĩnh vực này duy trì mức tăng trưởng từ 4,5 đến 6%. Do vậy, đã từ lâu, chăn nuôi được xác định là một ngành chủ lực, cần phải chuyển dịch từ chăn nuôi quy mô nhỏ sang chăn nuôi tập trung, hàng hóa, quy mô lớn.
Tuy nhiên, ngoài những đóng góp cho nền kinh tế, ngành chăn nuôi cũng đặt ra nhiều thách thức cho vấn đề bảo vệ môi trường và phát thải khí nhà kính".
.png)
Các số liệu gần đây tiếp tục củng cố nhận định rằng ngành chăn nuôi là một trong những "điểm nóng" về phát thải khí nhà kính, đặc biệt ở các quốc gia có ngành chăn nuôi phát triển mạnh như Mỹ, Brazil, Trung Quốc và các nước EU. Những quốc gia này sở hữu đàn gia súc khổng lồ, với hệ thống sản xuất thịt và sữa quy mô công nghiệp, kéo theo lượng phát thải vượt trội so với các nước khác. Chẳng hạn, Brazil – một trong những nước xuất khẩu thịt bò lớn nhất thế giới – chứng kiến mức phát thải từ chăn nuôi tăng đáng kể, phần lớn do nạn phá rừng Amazon để mở rộng diện tích đồng cỏ. Tại Mỹ, các trang trại chăn nuôi tập trung (CAFOs) với quy mô hàng chục nghìn con gia súc không chỉ tạo ra khí thải mà còn gây ô nhiễm nguồn nước và đất, khiến tác động môi trường của ngành này trở nên phức tạp hơn.

Mặc dù những con số đáng báo động về phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi thường được nhắc đến trong bối cảnh toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, các chuyên gia nhận định, vấn đề này cũng đang trở thành một thách thức lớn. Là một quốc gia nông nghiệp với ngành chăn nuôi phát triển mạnh mẽ, Việt Nam không nằm ngoài vòng xoáy của áp lực khí hậu. Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng đàn gia súc, đặc biệt là bò và lợn, cùng với mô hình chăn nuôi nhỏ lẻ xen kẽ với trang trại quy mô công nghiệp, đã khiến bài toán phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi trở nên phức tạp hơn.
Những tác động môi trường nặng nề
Khí methane từ bò làm ấm hành tinh
Sản xuất chăn nuôi, đặc biệt là quá trình tiêu hóa của bò, góp phần đáng kể vào việc phát thải khí methane, một loại khí nhà kính mạnh góp phần vào sự nóng lên toàn cầu. Khí methane được giải phóng trong quá trình lên men xảy ra trong hệ thống tiêu hóa của bò, được gọi là lên men đường ruột. Quá trình sinh học tự nhiên này dẫn đến việc sản xuất và giải phóng khí metan thông qua chứng ợ hơi và đầy hơi. Nhu cầu toàn cầu cao về các sản phẩm động vật đã dẫn đến số lượng vật nuôi tăng lên, đặc biệt là gia súc, dẫn đến lượng khí thải methane tăng đáng kể. Sự tập trung khí methane này trong khí quyển góp phần gây ra hiệu ứng nhà kính, giữ nhiệt và góp phần làm tăng nhiệt độ trên hành tinh của chúng ta. Có thể thấy, giải quyết vấn đề phát thải khí methane từ bò là một phần quan trọng trong việc giảm thiểu tác động của ngành chăn nuôi đối với biến đổi khí hậu và hướng tới một tương lai bền vững hơn.

Khí thải chăn nuôi cạnh tranh với khí thải giao thông
Không thể đánh giá thấp tác động của chăn nuôi đối với biến đổi khí hậu, vì lượng khí thải của chúng thậm chí có thể cạnh tranh với các loại khí thải giao thông.
.png)
Các hoạt động thâm canh liên quan đến chăn nuôi góp phần đáng kể vào việc phát thải khí nhà kính, đặc biệt là ở dạng khí methane và nitơ oxit. Khí methane, được giải phóng thông qua quá trình lên men đường ruột ở vật nuôi, nơi các vi sinh vật trong hệ tiêu hóa của chúng phân hủy thức ăn. Ngoài ra, quản lý phân và sử dụng phân bón tổng hợp trong sản xuất thức ăn chăn nuôi góp phần giải phóng nitơ oxit, một loại khí nhà kính mạnh khác. Những khí thải này có tác động làm nóng lên đáng kể bầu khí quyển và góp phần làm tăng nhiệt độ toàn cầu nói chung.
Phá rừng để chăn nuôi góp phần làm biến đổi khí hậu
Phá rừng để chăn nuôi góp phần gây ra biến đổi khí hậu theo nhiều cách. Thứ nhất, cây cối đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ carbon dioxide từ khí quyển, vì vậy khi rừng bị chặt phá, bể chứa carbon tự nhiên này sẽ giảm đi, dẫn đến nồng độ khí nhà kính tăng lên. Ngoài ra, việc đốt cây còn giải phóng carbon dioxide được lưu trữ vào không khí.

Thứ hai, nạn phá rừng làm giảm đa dạng sinh học tổng thể và phá vỡ hệ sinh thái, điều này có thể dẫn đến sự mất cân bằng trong các kiểu thời tiết và khí hậu địa phương. Cuối cùng, việc mở rộng chăn nuôi thường liên quan đến việc chuyển đổi rừng thành đồng cỏ hoặc đất trồng trọt để làm thức ăn chăn nuôi, điều này càng góp phần dẫn đến nạn phá rừng và biến đổi khí hậu sau đó.
Phân bón tạo ra khí nhà kính mạnh
Việc sử dụng phân bón trong hoạt động nông nghiệp cũng góp phần tạo ra các khí nhà kính mạnh. Phân bón, đặc biệt là những loại có chứa nitơ, giải phóng nitơ oxit (N2O) vào khí quyển. Nó được giải phóng thông qua nhiều quá trình khác nhau, bao gồm cả việc bón phân cho cây trồng và sau đó là quá trình chuyển hóa hợp chất nitơ trong đất của vi sinh vật.

Việc sử dụng rộng rãi phân bón tổng hợp trong chăn nuôi quy mô lớn làm trầm trọng thêm vấn đề này khi nhu cầu về cây làm thức ăn chăn nuôi tăng lên đáng kể. Khi chúng ta tiếp tục dựa vào các hoạt động nông nghiệp thâm canh, việc phát triển các giải pháp thay thế bền vững và cải thiện các chiến lược quản lý dinh dưỡng để giảm thiểu việc thải các khí nhà kính mạnh này vào khí quyển trở nên quan trọng. Bằng cách giải quyết tác động của phân bón đối với biến đổi khí hậu, có thể giảm hơn nữa dấu chân môi trường của ngành chăn nuôi và hướng tới một tương lai cân bằng sinh thái hơn.
Chất thải động vật gây ô nhiễm nguồn nước
Một mối quan tâm đáng kể khác về môi trường liên quan đến chăn nuôi là ô nhiễm nguồn nước do chất thải động vật. Việc chăn nuôi thâm canh dẫn đến một lượng chất thải đáng kể được tạo ra, bao gồm phân và nước tiểu. Khi không được quản lý đúng cách, những chất thải này có thể xâm nhập vào các nguồn nước gần đó, dẫn đến ô nhiễm và suy thoái hệ sinh thái thủy sinh. Nồng độ cao các chất dinh dưỡng, chẳng hạn như nitơ và phốt pho, trong chất thải động vật có thể gây ra sự phát triển quá mức của tảo trong các vùng nước, dẫn đến cạn kiệt oxy và gây hại cho đời sống thủy sinh.

Ngoài ra, sự hiện diện của mầm bệnh trong chất thải động vật gây nguy hiểm cho sức khỏe con người nếu nguồn nước được sử dụng để uống hoặc các hoạt động giải trí. Thực hành quản lý chất thải phù hợp, chẳng hạn như triển khai hệ thống lưu trữ và xử lý hiệu quả, là điều cần thiết trong việc giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước do chăn nuôi động vật gây ra.
Vận chuyển thức ăn làm tăng lượng khí thải
Một khía cạnh thường bị bỏ qua về đóng góp của ngành chăn nuôi đối với biến đổi khí hậu là vận chuyển thức ăn chăn nuôi. Để duy trì số lượng lớn vật nuôi, cần phải có một lượng lớn thức ăn, chẳng hạn như ngũ cốc và cây trồng. Những nguồn thức ăn này thường được vận chuyển trên một quãng đường dài, dẫn đến lượng khí thải carbon đáng kể từ các phương tiện vận chuyển. Mức tiêu thụ nhiên liệu và phát thải khí nhà kính liên quan đến việc vận chuyển thức ăn chăn nuôi làm tăng thêm lượng khí thải carbon tổng thể của ngành chăn nuôi. Việc triển khai các hệ thống sản xuất thức ăn chăn nuôi bền vững và địa phương có thể giúp giảm nhu cầu vận chuyển đường dài, từ đó giảm thiểu lượng khí thải tạo ra trong quá trình này. Điều quan trọng là phải giải quyết vấn đề vận chuyển thức ăn chăn nuôi như một phần của chiến lược toàn diện nhằm giảm thiểu tác động môi trường của ngành chăn nuôi đối với biến đổi khí hậu.
Giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi: Còn nhiều thách thức
Bàn về những thách thức trong việc giảm phát thải khí nhà kính của ngành chăn nuôi tại Việt Nam hiện nay, các chuyên gia cho rằng, còn rất nhiều vấn đề mà các doanh nghiệp phải đối mặt.
.png)
.png)
.png)
Hành lang pháp lý về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi
Chăn nuôi là một trong số lĩnh vực gây phát thải khí nhà kính (KNK) và cũng là lĩnh vực có nhiều tiềm năng giảm phát thải nếu triển khai đồng bộ giải pháp chính sách và quy định.
Để hoàn thiện hành lang pháp lý ở lĩnh vực này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 19/2024/TT-BNNPTNT của quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và kiểm kê khí nhà kính lĩnh vực chăn nuôi. Thông tư bắt đầu có hiệu lực từ ngày 25/1/2025.
Theo Thông tư số 19/2024/TT-BNNPTNT, kiểm kê KNK, đo đạc, báo cáo giảm nhẹ phát thải KNK cần tuân thủ các nguyên tắc: Đầy đủ, nhất quán, minh bạch, chính xác, so sánh được.
Cụ thể, tính đầy đủ: Việc kiểm kê KNK, đo đạc, báo cáo giảm nhẹ phát thải KNK phải thực hiện đối với tất cả các nguồn phát thải KNK, các nguồn hấp thụ KNK. Số liệu được thu thập liên tục, không bị gián đoạn;
Tính nhất quán: Việc kiểm kê KNK, đo đạc, báo cáo giảm nhẹ phát thải KNK đảm bảo thống nhất về phương án giám sát, số liệu tính toán, phương pháp kiểm kê KNK, phương pháp tính toán kết quả giảm nhẹ phát thải KNK;
Tính minh bạch: Các tài liệu, dữ liệu, giả định, số liệu hoạt động, hệ số áp dụng, phương pháp tính toán được giải thích rõ ràng, trích dẫn nguồn, được lưu giữ để đảm bảo độ tin cậy, tính chính xác cao;
Tính chính xác: Tính toán kiểm kê KNK, đo đạc, báo cáo giảm nhẹ phát thải KNK đảm bảo độ tin cậy theo phương pháp luận lựa chọn và giảm tối đa các sai lệch;
Tính so sánh được: Kết quả kiểm kê KNK, đo đạc, báo cáo giảm nhẹ phát thải KNK của một cơ sở, lĩnh vực đảm bảo các điều kiện về số liệu, phương pháp luận có tính tương đồng để có thể so sánh được.
Thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK cần duy trì tính độc lập với các bên liên quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, khách quan trong quá trình đánh giá; Đảm bảo sự trung thực, chính xác, khách quan và không thiên lệch.
Về quy trình và phạm vi kiểm kê, quy trình kiểm kê KNK cấp cơ sở gồm các bước: Xác định phạm vi kiểm kê KNK cấp cơ sở; Thu thập số liệu hoạt động kiểm kê KNK cấp cơ sở; Lựa chọn hệ số phát thải KNK cấp cơ sở; Xác định phương pháp kiểm kê và tính toán phát thải KNK cấp cơ sở; Thực hiện kiểm soát chất lượng kiểm kê KNK cấp cơ sở; Đánh giá độ không chắc chắn kiểm kê KNK cấp cơ sở; Tính toán lại kết quả kiểm kê KNK cấp cơ sở; Xây dựng báo cáo kết quả kiểm kê KNK cấp cơ sở.
Kiểm kê KNK cấp cơ sở được thực hiện đối với các nguồn phát thải thuộc phạm vi quản lý của cơ sở gồm nguồn phát thải trực tiếp và nguồn phát thải gián tiếp.
Trong đó, nguồn phát thải trực tiếp gồm: Phát thải do tiêu hóa thức ăn của vật nuôi; Phát thải do phân thải vật nuôi; Phát thải từ các hoạt động sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong quá trình chăn nuôi; Phát thải KNK là các dung môi chất lạnh từ thiết bị và quá trình sản xuất, rò rỉ dung môi chất lạnh của thiết bị sử dụng trong quá trình sản xuất, kinh doanh của cơ sở.
Nguồn phát thải gián tiếp gồm: Phát thải do tiêu thụ điện năng mua từ bên ngoài; Phát thải do sử dụng năng lượng hơi mua từ bên ngoài.
Trước đó, theo Quyết định 942/QĐ-TTg ngày 5/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt kế hoạch hành động giảm phát thải khí metan đến năm 2030, đến năm 2025, bảo đảm tổng lượng phát thải khí metan của Việt Nam không vượt quá 96,4 triệu tấn CO2tđ (giảm 13,34% so với mức phát thải năm 2020), trong đó, phát thải khí metan trong chăn nuôi không vượt quá 16,8 triệu tấn CO2 tđ.
Đến năm 2030, bảo đảm tổng lượng phát thải khí metan không vượt quá 77,9 triệu tấn CO2tđ (giảm ít nhất 30% so với mức phát thải năm 2020), trong đó, phát thải khí metan trong chăn nuôi không vượt quá 15,2 triệu tấn CO2 tđ. Lãnh đạo Cục Chăn nuôi, cho rằng, những mục tiêu giảm phát thải trong chăn nuôi đang đặt ra thách thức lớn cho ngành chăn nuôi, nhưng cũng tạo ra cơ hội lớn cho ngành chăn nuôi Việt Nam nếu nắm bắt kịp thời. Trước thách thức đồng thời cũng là cơ hội lớn nói trên, ngành chăn nuôi tiếp tục đẩy mạnh xây dựng lộ trình phát triển chăn nuôi bền vững, giảm phát thải.
Quyết định 942/QĐ-TTg ngày 5/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các biện pháp giảm phát thải KNK trong chăn nuôi bao gồm thay đổi, cải thiện và sử dụng các chế phẩm phù hợp trong khẩu phần ăn nhằm tăng năng suất, giá trị kinh tế trong chăn nuôi gia súc và giảm phát thải khí mê-tan; lai, cải tạo giống gia súc trong nước bằng những giống ngoại có năng suất chất lượng cao và phù hợp nhằm tăng năng suất, hiệu quả chăn nuôi; phát triển, khai thác hiệu quả các mô hình khí sinh học và ứng dụng công nghệ trong sản xuất phân bón hữu cơ từ chất thải chăn nuôi; thu hồi và sử dụng khí mêtan trong xử lý chất thải chăn nuôi vào các hoạt động trong chăn nuôi gia súc và sản xuất điện năng…
Việc xây dựng các Thông tư, Nghị định trong việc quy định kỹ thuật đo đạc, báo cáo, thẩm định giảm nhẹ phát thải KNK và kiểm kê KNK lĩnh vực chăn nuôi nhằm hoàn thiện cơ sở khung pháp lý cho công tác giảm phát thải KNK trong chăn nuôi, qua đó giúp ngành chăn nuôi phát triển một cách bền vững và đúng lộ trình; việc xây dựng một quy định mạnh mẽ và hiệu quả về giám sát, báo cáo, thẩm định phát thải KNK trong ngành chăn nuôi là hết sức cần thiết.
Giảm phát thải khí nhà kính để ngành chăn nuôi phát triển bền vững
Trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, việc giảm phát thải khí nhà kính từ ngành chăn nuôi không chỉ là một lựa chọn mà đã trở thành một yêu cầu cấp bách. Với việc đóng góp tới 14,5% tổng lượng khí nhà kính toàn cầu, ngành chăn nuôi đang tạo ra áp lực nghiêm trọng lên hệ thống khí hậu và tài nguyên thiên nhiên.

Việc giảm phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi đóng vai trò sống còn trong việc giữ nhiệt độ Trái đất không tăng quá 1,5 - 2°C theo mục tiêu của Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Nếu không kiểm soát tốt, khí metan từ chăn nuôi – với khả năng giữ nhiệt mạnh gấp 25 lần CO₂ – sẽ tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng nóng lên toàn cầu. Hơn thế nữa, nitơ oxit (N₂O) từ phân bón và chất thải chăn nuôi có tiềm năng gây hiệu ứng nhà kính gấp 300 lần CO₂, khiến tác động từ ngành này không thể bị xem nhẹ.
Một lý do quan trọng khác là sự suy giảm tài nguyên thiên nhiên do hoạt động chăn nuôi không bền vững. Việc phá rừng để mở rộng đồng cỏ và trồng thức ăn gia súc không chỉ làm mất đi khả năng hấp thụ CO₂ của rừng, mà còn góp phần làm suy thoái đất, cạn kiệt nguồn nước và đẩy nhanh sa mạc hóa. Nếu ngành chăn nuôi tiếp tục phát triển theo cách thiếu kiểm soát, các hệ sinh thái quan trọng như rừng Amazon – lá phổi xanh của hành tinh – có nguy cơ biến mất, tạo ra những hậu quả môi trường không thể đảo ngược.
Do đó, giảm phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi không chỉ giúp làm chậm quá trình biến đổi khí hậu, mà còn đảm bảo sự bền vững của ngành này trong dài hạn. Việc áp dụng các mô hình chăn nuôi thân thiện với môi trường, cải thiện chế độ ăn của gia súc để giảm phát thải metan, tận dụng khí sinh học từ chất thải chăn nuôi hay chuyển hướng sang các nguồn protein bền vững hơn đều là những biện pháp quan trọng. Chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng cần phối hợp để chuyển đổi ngành chăn nuôi theo hướng hiệu quả hơn, ít phát thải hơn và có trách nhiệm hơn với hành tinh.
Các chuyên gia cho rằng, chỉ khi giảm được lượng khí nhà kính từ chăn nuôi, mới có thể hy vọng giữ vững hệ thống khí hậu toàn cầu, bảo vệ môi trường và đảm bảo tương lai cho các thế hệ sau. Đây không còn là một mục tiêu xa vời, mà là một nhiệm vụ bắt buộc trong cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu.
