Emagazines

Chuyên đề "Phát triển kinh tế tư nhân gắn với tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường bền vững"

Thu Hà 12/08/2025 13:45

Phát triển kinh tế xanh và bảo vệ môi trường là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên. Kinh tế tư nhân, với vai trò là động lực tăng trưởng, cần gắn kết chặt chẽ mục tiêu kinh tế với trách nhiệm môi trường.

tang-truong-xanh-20221024164622374.jpg

LTS: Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đã khẳng định vai trò chiến lược của kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Không chỉ hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững, Nghị quyết còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu và thúc đẩy tăng trưởng xanh.

Chuyên đề "Phát triển kinh tế tư nhân gắn với tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường bền vững" của Tạp chí Môi trường và Cuộc sống được thực hiện nhằm làm rõ hơn nội dung, tinh thần và định hướng triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW trong thực tiễn. Thông qua những phân tích, góc nhìn chuyên gia và câu chuyện từ thực tế doanh nghiệp, chuyên đề kỳ vọng góp phần khơi dậy tinh thần đổi mới, sáng tạo, trách nhiệm xã hội của khu vực kinh tế tư nhân; thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh, ứng dụng công nghệ sạch, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm phát thải, hướng tới một nền kinh tế carbon thấp.

Với niềm tin vào ý chí, khát vọng vươn lên và khả năng thích ứng của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, chuyên đề mong muốn lan tỏa thông điệp: Tăng trưởng xanh không chỉ là xu thế tất yếu, mà còn là con đường để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, đóng góp thiết thực vào mục tiêu thịnh vượng và bền vững cho đất nước.

a2.jpg

Bài 1: Thực trạng hiện nay của kinh tế tư nhân trong bối cảnh tăng trưởng xanh

Trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển mình mạnh mẽ theo xu thế tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững, việc gắn kết mục tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế trở thành yêu cầu tất yếu đối với mọi quốc gia. Ở Việt Nam, kinh tế tư nhân (KTTN) đã và đang khẳng định vai trò trụ cột trong công cuộc đổi mới, hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh quốc gia.

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đã xác định rõ: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP, ngân sách nhà nước, tạo việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững.” Đây không chỉ là sự khẳng định vị thế của KTTN, mà còn là lời kêu gọi mạnh mẽ về việc định hướng lại mô hình phát triển, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm môi trường.

Trong bối cảnh đó, việc đánh giá thực trạng KTTN gắn với mục tiêu tăng trưởng xanh là bước đi cần thiết, vừa để nhìn nhận những thành tựu đạt được, vừa để nhận diện những hạn chế, từ đó xây dựng định hướng và giải pháp hiệu quả cho giai đoạn tới.

kttn-2-.jpg

Bối cảnh và những con số nổi bật

Sau gần 40 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân đã vươn lên trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Theo Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị, hiện nay cả nước có hơn 940 nghìn doanh nghiệp và trên 5 triệu hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động, tạo ra hơn một nửa sức sống của nền kinh tế. Khu vực này đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho khoảng 82% lực lượng lao động xã hội. Đây là những con số thể hiện rõ vai trò then chốt của kinh tế tư nhân trong thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội và ổn định vĩ mô.

Trong bối cảnh đất nước chuyển mình theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, kinh tế tư nhân được kỳ vọng không chỉ là “đầu tàu” tăng trưởng mà còn là lực lượng tiên phong trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học – công nghệ và chuyển đổi số. Nghị quyết 68 khẳng định, khu vực này cần đóng góp tích cực vào tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn và phát thải thấp, phù hợp với các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp tư nhân phải thay đổi mô hình sản xuất – kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn môi trường.

tu-nhan.jpeg
Phần lớn doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; năng lực tài chính, trình độ quản trị và khả năng đổi mới sáng tạo còn hạn chế

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu ấn tượng, kinh tế tư nhân vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Phần lớn doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; năng lực tài chính, trình độ quản trị và khả năng đổi mới sáng tạo còn hạn chế. Năng suất lao động chưa cao, sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế chưa tương xứng với tiềm năng. Thêm vào đó, môi trường pháp lý, cơ chế tiếp cận vốn, đất đai, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn còn nhiều rào cản; các chính sách hỗ trợ chưa thực sự đồng bộ và hiệu quả.

Để khắc phục những tồn tại này, Nghị quyết 68 đặt ra các mục tiêu rõ ràng đến năm 2030: Phấn đấu đạt 2 triệu doanh nghiệp đang hoạt động (tương đương khoảng 20 doanh nghiệp/1.000 dân), tốc độ tăng trưởng bình quân 10–12%/năm, nâng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân lên 55–58% GDP và 35–40% tổng thu ngân sách nhà nước. Đồng thời, khu vực này sẽ giải quyết 84–85% việc làm của xã hội và nâng năng suất lao động bình quân tăng 8,5–9,5%/năm. Đây là những mục tiêu đầy tham vọng, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực phát triển bền vững, gắn chặt với mục tiêu tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường.

Nghị quyết số 68-NQ/TW lần này chính là bước ngoặt thứ ba mang tính lịch sử trong phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu nhấn mạnh

Đại biểu Phan Đức Hiếu cho rằng: Bước ngoặt này được kỳ vọng sẽ tạo ra sự thay đổi về chất, nâng cao chất lượng của khu vực kinh tế tư nhân, đưa khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Cũng chính vì lý do này, giới chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp rất phấn khởi.

Cũng theo đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, chúng ta đã từng có Nghị quyết về kinh tế tư nhân. Ví dụ như Nghị quyết 10-NQ/TW khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và rất nhiều chính sách, đạo luật về khu vực kinh tế tư nhân.

Tuy nhiên, Nghị quyết số 68-NQ/TW lần này của Bộ Chính trị đã thể hiện 3 tư tưởng rất lớn. Đó là giảm sự phiền hà; tăng cường mức độ bảo vệ đối với khu vực kinh tế tư nhân và khơi thông mọi nguồn lực.

Đây là điểm rất mới vì trước đây chúng ta đã nhấn mạnh về việc giảm sự phiền hà nhưng lần này chúng ta còn nhấn mạnh thêm việc tăng cường mức độ bảo vệ khu vực kinh tế tư nhân.

Nghị quyết số 68-NQ/TW lần này của Bộ Chính trị đã thể hiện 3 tư tưởng rất lớn. Đó là giảm sự phiền hà; tăng cường mức độ bảo vệ đối với khu vực kinh tế tư nhân và khơi thông mọi nguồn lực.

Đồng thời, khơi thông mọi nguồn lực để khu vực kinh tế tư nhân thực sự là lực lượng quan trọng nhất trong việc đóng góp vào mục tiêu xây dựng đất nước đến năm 2030, năm 2045 mà chúng ta đã đề ra.

Thách thức liên quan đến tăng trưởng xanh

Một trong những thách thức lớn nhất của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến trình chuyển đổi xanh là năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp. Phần lớn doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm vừa và nhỏ, vẫn vận hành trên nền tảng công nghệ trung bình hoặc lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, nước và nguyên liệu so với mức chuẩn của khu vực và thế giới. Việc áp dụng công nghệ sạch đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu cao, trong khi khả năng huy động vốn của doanh nghiệp lại hạn chế. Hoạt động nghiên cứu – phát triển (R&D) chưa được chú trọng, tỷ lệ doanh thu dành cho đổi mới sáng tạo rất thấp, thiếu đội ngũ kỹ sư, chuyên gia am hiểu công nghệ xanh. Điều này khiến tiến trình sản xuất – kinh doanh theo hướng tăng trưởng xanh diễn ra chậm, chưa tạo được bước đột phá về hiệu quả môi trường.

kttn-3-.jpg

Bên cạnh hạn chế về công nghệ, tư duy kinh doanh của nhiều doanh nghiệp tư nhân vẫn thiên về mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn, thiếu gắn kết với chiến lược phát triển bền vững. Không ít doanh nghiệp chỉ triển khai các sáng kiến xanh để đáp ứng yêu cầu pháp luật hoặc tiêu chuẩn của đối tác xuất khẩu, chứ chưa coi đây là động lực cốt lõi. Chiến lược ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) mới chỉ xuất hiện ở một số doanh nghiệp lớn, trong khi phần đông doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa hiểu hoặc chưa đủ nguồn lực áp dụng. Giá trị thương hiệu xanh – yếu tố ngày càng được thị trường quốc tế coi trọng – vẫn chưa được khai thác hiệu quả. Chính sự thiếu tầm nhìn dài hạn này khiến nhiều doanh nghiệp chưa kịp bắt nhịp với xu thế kinh tế carbon thấp đang lan rộng toàn cầu.

Về thể chế và pháp lý, dù hệ thống chính sách hỗ trợ tăng trưởng xanh đã được hình thành, nhưng tính đồng bộ và hiệu lực triển khai còn hạn chế. Các quy định liên quan đến đầu tư xanh, tín dụng xanh, hay quản lý phát thải vẫn tồn tại chồng chéo, thiếu hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình áp dụng. Chi phí tuân thủ môi trường, từ đầu tư hệ thống xử lý chất thải, thiết bị giám sát đến các thủ tục kiểm định định kỳ, là gánh nặng không nhỏ, nhất là khi các cơ chế hỗ trợ tài chính còn thiếu và phân tán. Thêm vào đó, nhiều thủ tục hành chính trong việc xin cấp phép dự án xanh hay hưởng ưu đãi đầu tư còn phức tạp, làm giảm động lực chuyển đổi của khu vực tư nhân.

ke-hoach-hanh-dong-cua-chinh-phu-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan1747657628.jpeg
Kinh tế tư nhân hiện đang khẳng định vai trò là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế Việt Nam

Một rào cản khác là khả năng tiếp cận tài nguyên xanh và nguồn lực hỗ trợ còn nhiều hạn chế. Quỹ đất dành cho các dự án năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ hoặc hạ tầng xanh vẫn còn hạn hẹp và chịu sự cạnh tranh khốc liệt, thường ưu tiên cho các nhà đầu tư quy mô lớn. Tín dụng xanh, dù đã xuất hiện, vẫn chưa phổ biến, quy mô nhỏ và kèm nhiều điều kiện khắt khe, yêu cầu doanh nghiệp phải đáp ứng những tiêu chuẩn kỹ thuật và báo cáo đánh giá tác động môi trường phức tạp. Trong khi đó, nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ môi trường và quản lý bền vững còn thiếu, khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi triển khai các dự án xanh. Sự cộng hưởng của những yếu tố này đã tạo nên vòng luẩn quẩn: Thiếu vốn dẫn tới công nghệ lạc hậu, chi phí môi trường cao, năng lực cạnh tranh giảm, từ đó càng khó đầu tư cho chuyển đổi xanh.

kttn-4-.jpg

Kinh tế tư nhân hiện đang khẳng định vai trò là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế Việt Nam. Những năm qua, khu vực này đóng góp khoảng một nửa GDP, hơn 30% thu ngân sách, sử dụng trên 80% lực lượng lao động và chiếm hơn một nửa tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN ổn định ở mức cao, nhiều doanh nghiệp đã vươn tầm khu vực, thể hiện tiềm năng to lớn để trở thành trụ cột trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đây chính là nền tảng quan trọng để gắn kết phát triển kinh tế tư nhân với mục tiêu tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường bền vững.

Tuy nhiên, KTTN vẫn còn đối mặt với nhiều hạn chế, đặc biệt là quy mô nhỏ lẻ, thiếu liên kết và sức cạnh tranh chưa cao. Khoảng 98% doanh nghiệp thuộc khu vực này là nhỏ và siêu nhỏ; năng lực quản trị, đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ xanh còn yếu; mức độ tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế. Bên cạnh đó, thể chế, chính sách và môi trường pháp lý chưa thật sự thuận lợi, vẫn tồn tại thủ tục hành chính phức tạp, rào cản tiếp cận nguồn lực và tình trạng phân biệt đối xử ở một số lĩnh vực. Những yếu tố này đang cản trở quá trình “xanh hóa” sản xuất – kinh doanh và hạn chế tốc độ chuyển đổi sang mô hình phát triển bền vững.

Để KTTN thực sự trở thành động lực chủ lực cho tăng trưởng xanh, cần một sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy và chiến lược phát triển. Doanh nghiệp tư nhân phải chủ động tích hợp yếu tố xanh, tuần hoàn và bền vững ngay từ khâu thiết kế sản phẩm, tổ chức sản xuất đến tiêu thụ; mạnh dạn đầu tư vào công nghệ sạch, nâng cao năng lực quản trị và nhân lực chất lượng cao. Song song đó, Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và bình đẳng; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính; hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh; khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi xanh thông qua các cơ chế ưu đãi, tài chính xanh và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

KTTN có tiềm năng lớn, đóng góp chính cho nền kinh tế, nhưng để tiến gần hơn tới mục tiêu phát triển bền vững, cần đồng thời nâng cao năng lực “xanh hóa” và đổi mới tư duy, cùng với một thể chế pháp luật thực sự thuận lợi. Khi hội tụ đủ các yếu tố này, khu vực kinh tế tư nhân không chỉ duy trì được đà tăng trưởng mà còn trở thành lực lượng tiên phong trong hành trình xây dựng nền kinh tế xanh, tuần hoàn, hiện đại và hội nhập sâu rộng, đúng như tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW.

Bài liên quan
  • Xu hướng chuyển đổi xanh trong kinh tế biển khu vực Bắc Trung Bộ
    Chuyển đổi xanh và phát triển kinh tế biển xanh là xu thế tất yếu và chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước. Để hiện thực hóa, cần đột phá về thể chế, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và hạ tầng biển, trên nền tảng phát huy giá trị văn hóa biển Việt Nam.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
}
Chuyên đề "Phát triển kinh tế tư nhân gắn với tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường bền vững"
(*) Bản quyền thuộc về Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.