Nước và Đời sống

Dưới những dòng nước đen: Hành trình gian nan xử lý nước thải đô thị ở Việt Nam

Nguyễn Chăm 11/11/2025 19:53

Những con sông vốn hiền hòa giữa lòng đô thị nay biến thành dòng nước đen đặc quánh, nồng nặc mùi hôi. Dù được đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng cho hệ thống xử lý, đến nay, chỉ khoảng 18% nước thải đô thị ở Việt Nam được xử lý trước khi xả ra môi trường. Câu chuyện xử lý nước thải đô thị không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà là thước đo cho sự phát triển bền vững của chính những thành phố nơi chúng ta đang sống.

o-nhiem-vinh-niem-2.jpg

Khi nước thải vẫn chảy giữa lòng đô thị

Hai tháng sau khi dòng sông Tô Lịch bất ngờ trở nên trong xanh hiếm hoi, đến nay – đầu tháng 11, con sông này lại quay trở về hình ảnh quen thuộc: Đen đặc, bốc mùi hôi và ngập rác nổi lềnh bềnh. Mỗi sáng, đi qua đoạn sông gần đường Nguyễn Khang, đường Láng hay đường Bưởi, người dân lại không khỏi thở dài. “Vừa mới sạch được ít hôm, giờ lại như cũ rồi,” bà Lê Thị Hoa (62 tuổi), sống ở phường Cầu Giấy, ngao ngán lắc đầu.

trang-nau-nhat-ro-rang-ke-o-anh-ghep-anh-chi-em-bai-dang-instagram.png
Chỉ sau hai tháng, dòng Tô Lịch từng “gây sốt” vì trong xanh bất ngờ nay lại trở về tình trạng ô nhiễm cũ với màu nước đen ngòm, bốc mùi hôi khó chịu

Tâm trạng của bà Hoa có lẽ là nỗi lòng chung của hàng trăm hộ dân sinh sống dọc con sông Tô Lịch – dòng sông được ví như “mạch máu” của Thủ đô, nhưng cũng là “nỗi đau” kéo dài nhiều thập kỷ.

Trước đó không lâu, việc dẫn nước từ Hồ Tây vào sông Tô Lịch từng mang lại tín hiệu tích cực: Mùi hôi giảm rõ rệt, nước trở nên trong xanh hiếm hoi. Người dân sống quanh sông còn chia sẻ hình ảnh “Tô Lịch đổi màu” lên mạng xã hội, coi đó là bước khởi đầu cho hy vọng “dòng sông sống lại”. Nhưng niềm vui chỉ kéo dài vài ngày, nước vẫn đen trở lại, mùi hôi vẫn bám dọc hai bờ, và rác thì vẫn trôi lềnh bềnh như thách thức mọi nỗ lực.

quote.png

Thông tin từ Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật và nông nghiệp Hà Nội, đến giữa tháng 8, thành phố đã thu gom toàn bộ 245 cửa xả dọc sông Tô Lịch, đấu nối nước thải về Nhà máy xử lý nước thải Yên Xá – nơi có công suất 200.000 m³/ngày đêm. Ngoài ra, hệ thống đập điều tiết và tuyến ống dẫn nước từ hồ Tây về sông cũng đã hoàn thiện trên 95%, từ cuối tháng 9 đã tiến hành bổ cập nước sau xử lý với lưu lượng tương đương, giúp duy trì mực nước ổn định ở mức 3,5m.

Thế nhưng, hiện nay đã gần đến giữa tháng 11, thực tế PV ghi nhận tại nhiều đoạn sông cho thấy, tình trạng ô nhiễm vẫn chưa được cải thiện rõ rệt. Dù nước không còn đặc quánh như trước, nhưng mùi hôi và màu đen vẫn hiện hữu. Một số khu vực nước trong hơn, song lại nhanh chóng tái đen sau mỗi đợt mưa hoặc khi dòng bổ cập bị gián đoạn.

image-1-.jpg
Người dân Hà Nội rất kỳ vọng vào sự hồi sinh của sông
Tô Lịch

Ông Trần Văn Phú, (68 tuổi), sống bên bờ sông đoạn Nguyễn Khang, lắc đầu: “Tôi sống ở đây hơn ba chục năm rồi, thấy sông này được ‘cứu’ không biết bao nhiêu lần. Năm nào cũng nghe nói cải tạo, xử lý, khử mùi… nhưng rồi đâu lại vào đấy. Dân như chúng tôi chỉ mong một dòng sông sạch mãi, chứ không phải sạch được vài hôm rồi đen trở lại.”

outline.png

Mỗi ngày, Hà Nội thải ra hàng triệu mét khối nước bẩn, nhưng mới chỉ khoảng 20% được xử lý trước khi xả ra sông hồ. Phần còn lại len lỏi qua những cống xả nhỏ, những khu dân cư chưa được đấu nối hoặc hệ thống ống cũ kỹ, chảy thẳng ra môi trường. Nhà máy Yên Xá dù được kỳ vọng là “cứu tinh” của sông Tô Lịch, song bản thân nhà máy chỉ là “khâu cuối” trong chuỗi xử lý. Khi mạng lưới thu gom đầu vào còn chưa khép kín, dòng chảy ô nhiễm vẫn tràn ra sông mỗi ngày, khiến mọi nỗ lực chỉ như “đổ nước vào chỗ trũng”.

Sông Tô Lịch hôm nay không chỉ là một dòng nước ô nhiễm, mà là tấm gương phản chiếu rõ nhất cho sự yếu kém của hệ thống xử lý nước thải đô thị. Khi “mạch máu” môi trường của thành phố vẫn mang dòng nước đen, thì giấc mơ về một Thủ đô xanh, sạch, đáng sống vẫn còn xa vời.

Sự chậm nhịp của hạ tầng trong guồng quay đô thị hóa

Cùng với tốc độ đô thị hóa tăng nhanh bậc nhất khu vực, lượng nước thải phát sinh tại các thành phố lớn ở Việt Nam đang tăng gấp nhiều lần chỉ trong một thập kỷ nhưng hệ thống thu gom và xử lý có vẻ như khá “chậm nhịp”.

photo-text-2.png

Đối với khu vực nông thôn, thoát nước và xử lý nước thải hầu như chưa có công trình xử lý nước thải tập trung; riêng một số khu vực làng nghề, nước thải sản xuất được thu gom, xử lý sơ bộ; còn lại hầu hết nước thải sinh hoạt nông thôn xả trực tiếp ra môi trường.

screenshot-2025-11-12-224736.png
Nhiều khu đô thị không có đường cống thu gom nước thải sinh hoạt

Trên thực tế, tốc độ đô thị hóa chóng mặt đang khiến hạ tầng thoát nước trở thành “điểm nghẽn” lớn nhất. Ở những khu đô thị mới, nhiều tuyến cống chỉ được thiết kế để thoát nước mưa, hoàn toàn không có đường thu gom nước thải sinh hoạt. Còn tại các khu dân cư cũ, mạng lưới cống ngầm chằng chịt, lắp vá qua từng thời kỳ, nhiều đoạn đã xuống cấp hoặc tắc nghẽn, khiến nước thải, nước mưa và cả nước rửa từ sản xuất, chợ búa đều đổ chung vào một dòng, tạo thành hỗn hợp ô nhiễm khó kiểm soát.

Ở TP. HCM, lượng nước thải sinh hoạt phát sinh mỗi ngày ước khoảng 1,57 triệu m³, nhưng chỉ khoảng 300.000 m³ được xử lý. Phần lớn vẫn “lưu thông tự do” trong lòng thành phố, chảy qua các kênh Tàu Hủ, Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Tham Lương – Bến Cát rồi đổ ra sông Sài Gòn. Dù thành phố đã có nhiều dự án xây nhà máy xử lý nước thải quy mô lớn, nhưng tiến độ chậm, chi phí đầu tư cao, còn nguồn vốn xã hội hóa lại không mấy hấp dẫn vì khả năng thu hồi vốn thấp.

screenshot-2025-11-12-231019.png
Nhiều nhà máy lâu đời, công nghệ lạc hậu, không còn phù hợp với đặc thù nước thải sinh hoạt Việt Nam hiện nay

Không chỉ là câu chuyện thiếu vốn, vấn đề còn nằm ở khâu quy hoạch và công nghệ. Nhiều nhà máy được xây dựng cách đây hơn chục năm, công nghệ lạc hậu, không còn phù hợp với đặc thù nước thải sinh hoạt Việt Nam vốn chứa lượng hữu cơ, dầu mỡ và tạp chất cao. Không ít nơi, hệ thống xử lý hoạt động cầm chừng do nguồn nước thải đầu vào không ổn định, trong khi chi phí vận hành lớn, khiến hiệu quả giảm sút đáng kể.

Bên cạnh đó, việc đấu nối hộ dân vào hệ thống thu gom cũng là một “nút thắt” chưa tháo gỡ được. Phần lớn người dân vẫn nghĩ rằng “nước đã chảy vào cống là đã xử lý”, nhưng thực tế, rất nhiều tuyến cống đó chỉ là cống thoát nước mưa, không kết nối đến nhà máy xử lý. Kết quả là nước thải vẫn chảy thẳng ra kênh mương, hồ ao, gây ô nhiễm chéo và làm sụp đổ nỗ lực đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào các nhà máy phía sau.

Hà Nội, TP. HCM hay Đà Nẵng – những đô thị lớn được xem là trung tâm phát triển của cả nước đều đang đối mặt với tình trạng tương tự: Công suất xử lý không theo kịp tốc độ đô thị hóa. Ở nhiều khu vực, chỉ cần mưa lớn, hệ thống thoát nước quá tải, nước thải tràn ngược ra đường, hòa vào dòng nước mưa đục ngầu, cuốn theo rác thải, chất thải sinh hoạt, biến nhiều tuyến phố thành “sông ngắn” chỉ sau vài giờ.

Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam thiệt hại khoảng 780 triệu USD mỗi năm – tương đương 1,3% GDP vì chi phí phát sinh từ ô nhiễm nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém. Để đáp ứng nhu cầu xử lý nước thải đô thị cho khoảng 36 triệu dân đô thị vào năm 2025, nước ta cần đầu tư ít nhất 8,3 tỷ USD. Nhưng đến nay, con số đó vẫn chủ yếu nằm trên giấy, khi hàng loạt dự án xử lý nước thải trọng điểm ở Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ… vẫn đang bị “treo”, chậm tiến độ hàng năm trời vì thiếu vốn hoặc vướng mặt bằng.

green-and-white-modern-environmental-care-facebook-post.png

Trong guồng quay của đô thị hóa, hạ tầng thoát nước và xử lý nước thải đang trở thành mảnh ghép yếu nhất trong bức tranh phát triển. Và chừng nào những dòng nước đen vẫn len lỏi giữa phố phường, thì chừng đó, sự phát triển ấy vẫn còn một khoảng trống lớn mang tên môi trường đô thị bền vững.

Những dòng sông “kêu cứu”

Không chỉ là con số khô khan, hệ quả của việc không xử lý nước thải đang hiển hiện rõ rệt trong từng nhịp sống đô thị. Những dòng sông, con kênh từng gắn bó với người dân nay biến thành “mương chết”.

Trên tuyến kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè (TP.HCM), dù đã từng được cải tạo, nhưng đến thời điểm hiện tại, rác thải đủ loại nổi lềnh bềnh, ứ đọng ngày càng nhiều, nhất là dưới các trụ cầu và hai bên mép kênh. Nước trên kênh đổi sang màu đen, xuất hiện nhiều váng và nổi bọt khí. Nhiều người dân bức xúc vì con kênh này còn là nơi tiếp nhận lượng lớn nước thải từ hệ thống cống xả ở khu vực xung quanh đổ về, do rác tích tụ lâu ngày trong cống từ các khu dân cư, mỗi khi mưa lớn, nước thải chưa qua xử lý từ các cống cuốn theo rác đổ vào kênh, dẫn đến phía kênh đoạn tại giao lộ Út Tịch bị ô nhiễm trầm trọng.

blue-yellow-and-white-modern-summer-sale-facebook-post-1-.png
Tương tự sông Tô Lịch, dù từng được cải tạo với kỳ vọng “hồi sinh”, tuyến kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè nay lại oằn mình trong rác thải và nước thải ô nhiễm

Nước thải sinh hoạt chứa nhiều hợp chất hữu cơ, vi khuẩn, chất rắn và kim loại nặng. Khi không được xử lý, chúng ngấm dần xuống đất, làm ô nhiễm nguồn nước ngầm – nơi hàng triệu hộ dân nông thôn và ven đô vẫn đang sử dụng làm nước sinh hoạt.

Các chuyên gia y tế cảnh báo, sự hiện diện của E.coli, Coliform và các vi sinh vật gây bệnh trong nguồn nước thải có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh về đường ruột, da liễu và hô hấp. Ở những khu vực ven sông ô nhiễm nặng, tỷ lệ người dân mắc bệnh tiêu hóa cao gấp đôi trung bình thành phố.

Không chỉ ảnh hưởng sức khỏe, nước thải chưa xử lý còn làm mất mỹ quan đô thị. Những con sông đen, ao hồ nổi bọt, mùi hôi bốc lên trong nắng nóng khiến hình ảnh thành phố hiện đại trở nên méo mó. Đó là chưa kể đến chi phí khổng lồ để khắc phục ô nhiễm và phục hồi hệ sinh thái nước.

Đi tìm lối thoát cho nước thải

đô thị

Đầu năm nay (tháng 1/2025), tại phiên họp Hội đồng thẩm định Dự án Luật Cấp, thoát nước, đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo là Bộ Xây dựng cho biết hiện nay, pháp luật quản lý lĩnh vực cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải hiện chưa có luật chuyên ngành, đang thực hiện theo các Nghị định được ban hành từ 10-15 năm trước đây, nhiều nội dung trong Nghị định đã ban hành đến nay chưa đáp ứng với nhu cầu phát triển ngành cấp, thoát nước và đang bị chi phối bởi nhiều Luật có liên quan khác; đã và đang tác động trực tiếp đến quá trình đầu tư, vận hành; hạn chế việc nâng cao chất lượng dịch vụ và kiểm soát rủi ro.

Ngoài ra, theo Luật Quy hoạch 2017, nội dung quy hoạch cấp, thoát nước trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh chỉ mang tính định hướng, chưa được quy định cụ thể. Trong thời gian qua, nhiều quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh được phê duyệt nhưng nội dung quy hoạch cấp, thoát nước chưa đầy đủ các nội dung để làm cơ sở cho các quy hoạch cấp dưới triển khai và khó khăn cho việc lập, triển khai các dự án đầu tư xây dựng. Trong thời gian tới sẽ gặp khó khăn khi đầu tư xây dựng các dự án cấp nước, thoát nước mang tính vùng.

Trong thời gian qua, từ việc phân giao quản lý, nội dung quy hoạch cấp nước thiếu tính gắn kết khu vực đô thị, nông thôn, thiếu tính vùng; chủ yếu tập trung huy động nguồn lực tư nhân đầu tư lấp kín khu vực cấp nước còn thiếu. Điều này dẫn đến phát triển cấp nước manh mún, nhỏ lẻ thiếu bền vững, hạn chế hỗ trợ phát triển cấp nước nông thôn.

Trong điều kiện biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, cần thiết đầu tư công trình cấp nước quy mô vùng liên tỉnh, dẫn nguồn nước từ xa, có chi phí đầu tư lớn, hiệu quả đầu tư thấp. Hiện nay chưa có cơ chế chính sách hướng dẫn về hỗ trợ đầu tư, quản lý vận hành và sự tham gia của các Bộ ngành, địa phương.

Bộ Xây dựng cũng chỉ ra rằng nguồn vốn đầu tư cho thoát nước và xử lý nước thải chủ yếu từ nguồn ODA, chưa tương xứng với nhu cầu thực tế do vốn đầu tư rất lớn (gấp từ 3 đến 10 lần so với đầu tư công trình cấp nước).

Giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải thấp chưa tạo động lực cho huy động tư nhân đầu tư. Đầu tư không đồng bộ giữa mạng lưới thoát nước và nhà máy xử lý nước thải nên không khai thác hết công suất thiết kế nhà máy xử lý nước thải, giảm hiệu quả đầu tư công trình. Nhiều hệ thống thoát nước mặt (nước mưa) tại các đô thị bị vượt tải, khả năng thoát nước không theo kịp thực tiễn của tác động biến đổi khí hậu và hiện tượng thời tiết cực đoan.

screenshot-2025-11-13-003717.png
Các chuyên gia cho rằng cần sớm ban hành Luật Cấp, thoát nước để tạo hành lang pháp lý thống nhất để tháo gỡ điểm nghẽn trong quản lý và đầu tư xử lý nước thải đô thị

Trước thực trạng trên, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần một chiến lược tổng thể trong xử lý nước thải đô thị, không chỉ là xây thêm nhà máy, mà còn phải thay đổi mô hình quản lý và cách tiếp cận. Việc đầu tiên là phải hoàn thiện và ban hành Dự án Luật Cấp, thoát nước để tạo nên hành lang pháp lý vững chắc.

Ở góc độ công nghệ và giải pháp phù hợp, PGS.TS Lê Hùng Anh cho rằng mô hình xử lý nước thải bán tập trung sẽ hiệu quả hơn với điều kiện đô thị Việt Nam: “Thay vì dồn toàn bộ nước thải về một nhà máy lớn, chúng ta có thể xử lý tại các khu dân cư, cụm đô thị hoặc tòa nhà chung cư. Mô hình này giúp giảm chi phí đầu tư, dễ quản lý, không cần hệ thống cống thu gom dài, đồng thời có thể tái sử dụng nước sau xử lý ngay tại chỗ cho tưới cây hoặc vệ sinh công cộng.”

Ông lấy ví dụ về công nghệ Biorotor của Croatia, phù hợp với các khu dân cư nhỏ đến vừa, vận hành ổn định, ít tốn chi phí và bền vững trong nhiều điều kiện thời tiết khác nhau. Theo ông, đây là hướng đi thực tế hơn cho Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh các đô thị lớn đang chịu áp lực quỹ đất và chi phí vận hành cao.

“Hiệu quả xử lý nước thải không chỉ phụ thuộc vào công nghệ, mà còn nằm ở sự phối hợp giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp cấp thoát nước và người dân. Khi người dân hiểu rõ nước thải của họ được xử lý ra sao, nguồn phí họ đóng được sử dụng thế nào, họ sẽ chủ động giám sát và đồng hành cùng chính quyền,” PGS.TS Lê Hùng Anh nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, trong ngắn hạn, cần tập trung duy tu, khơi thông hệ thống thoát nước hiện hữu, sửa chữa những tuyến cống xuống cấp, nạo vét lòng kênh, hồ điều hòa để tăng khả năng tiêu thoát nước. Tiến hành đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao ý thức người dân trong việc không xả rác và nước thải trực tiếp ra môi trường.

Về lâu dài, quy hoạch đô thị phải tính đến yếu tố nước thải ngay từ đầu. Mỗi dự án nhà ở, khu đô thị, trung tâm thương mại đều phải có hệ thống xử lý nước thải cục bộ đạt chuẩn trước khi xả ra hệ thống chung. Song song, cần khuyến khích mô hình xử lý tại chỗ, đặc biệt ở các khu dân cư ven đô hoặc khu công nghiệp nhỏ, nơi khó đấu nối vào hệ thống tập trung.

Một hướng đi được giới chuyên môn nhấn mạnh là hợp tác công – tư (PPP). Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực khó thu hút đầu tư, vì lợi nhuận thấp, vòng đời dự án dài. Để khuyến khích doanh nghiệp tham gia, cần có chính sách hỗ trợ tài chính, miễn giảm thuế, hoặc cơ chế thu phí thoát nước hợp lý.

quote-1-.png

Những dòng sông trong lòng đô thị vẫn ngày ngày trôi đi nặng nề, lặng lẽ mang theo bao hệ lụy của phát triển. Mỗi con kênh, mỗi mạch nước đen đang trở thành lời nhắc nhở rằng đô thị hóa không chỉ là những tòa nhà cao tầng hay những đại lộ rực sáng, mà còn là câu chuyện của những gì nằm sâu dưới mặt đất – nơi dòng nước thải vẫn chưa được thanh lọc.

Việc xử lý nước thải không còn là nhiệm vụ riêng của ngành xây dựng hay môi trường, mà là trách nhiệm của toàn xã hội. Bởi khi dòng sông bị đầu độc, đô thị cũng đang tự làm tổn thương chính “mạch máu” của mình. Một thành phố văn minh không thể được đo bằng chiều cao của những tòa nhà, mà bằng độ trong của những dòng nước chảy giữa lòng nó.

Hà Nội, TP. HCM hay Đà Nẵng đều đang đứng trước ngã rẽ, giữa tiếp tục để dòng nước đen len lỏi qua phố phường, hay thật sự hành động để biến nước thải thành nguồn tài nguyên được tái sử dụng. Con đường ấy có thể dài và tốn kém, nhưng nếu không bắt đầu từ hôm nay, những “dòng sông chết” sẽ còn kéo dài mãi trong ký ức của những thế hệ sau.

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành đề ra mục tiêu, đến năm 2030, các đô thị loại II trở lên phải đạt tỷ lệ 50% nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý theo quy chuẩn; các đô thị còn lại tỷ lệ phải đạt là 20%.

Đến năm 2050, có 100% đô thị hoàn thiện hệ thống thoát nước, xóa bỏ tình trạng ngập úng; 100% nước thải được thu gom, xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra nguồn tiếp nhận.

Bài liên quan
  • Nước thải sinh hoạt – điểm nghẽn lớn trong hành trình hướng tới đô thị xanh
    Việc xử lý nước thải sinh hoạt vẫn là bài toán nan giải trong công tác quản lý môi trường đô thị tại Việt Nam. Dù hành lang pháp lý đã được thiết lập tương đối đầy đủ, song công tác triển khai vẫn gặp nhiều trở ngại, đặc biệt là trong huy động nguồn lực xã hội và hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ. Đây là những yếu tố then chốt quyết định hiệu quả bảo vệ môi trường đô thị.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
}
Dưới những dòng nước đen: Hành trình gian nan xử lý nước thải đô thị ở Việt Nam
(*) Bản quyền thuộc về Tạp chí điện tử Môi trường và Cuộc sống. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.