Chuyên đề: “Ô nhiễm nhựa - Cuộc khủng hoảng âm ỉ trong lòng đất và đại dương”
Ô nhiễm nhựa đang âm thầm len lỏi vào đất, nước và cả cơ thể con người. Từ đại dương đến lòng đất, những mảnh nhựa li ti đang gây ra cuộc khủng hoảng môi trường nghiêm trọng nhưng ít được chú ý – một mối đe dọa lặng lẽ nhưng dai dẳng.

P/S: Nhân Ngày Môi trường Thế giới (5/6) năm nay với chủ đề “Chống ô nhiễm nhựa”, Tạp chí Môi trường và Cuộc sống thực hiện chuyên đề đặc biệt mang tên “Ô nhiễm nhựa – Cuộc khủng hoảng âm ỉ trong lòng đất và đại dương” nhằm góp phần phản ánh sâu sắc hiện trạng báo động của vấn nạn ô nhiễm nhựa tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới.
Trong nhiều thập kỷ qua, nhựa đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại. Tuy nhiên, đằng sau sự tiện lợi ấy là cái giá khủng khiếp mà môi trường đang phải trả. Với trách nhiệm xã hội và sứ mệnh truyền thông vì sự phát triển bền vững, Tạp chí Môi trường và Cuộc sống thực hiện chuyên đề này không chỉ để phơi bày bức tranh toàn cảnh về ô nhiễm nhựa – từ thành thị đến nông thôn, từ đất liền đến đại dương, mà còn để tìm kiếm và lan tỏa những mô hình, sáng kiến, chính sách và hành động thiết thực từ cộng đồng, doanh nghiệp và chính quyền các cấp.
Chúng tôi hy vọng những thông tin trong chuyên đề sẽ là tiếng chuông cảnh tỉnh mạnh mẽ, đồng thời mở ra những gợi mở quan trọng cho hành trình giảm thiểu, tiến tới loại bỏ rác thải nhựa, xây dựng một môi trường sống xanh – sạch – lành mạnh cho hôm nay và mai sau.

Không ồn ào như khói bụi thành phố, không dễ nhận thấy như nước thải công nghiệp xả ra sông ngòi, ô nhiễm nhựa len lỏi trong từng ngóc ngách của đời sống hiện đại, âm thầm tích tụ trong đất, nước, và thậm chí là trong cơ thể con người. Tại Việt Nam, mỗi năm hàng triệu tấn rác thải nhựa được xả ra môi trường, đặt ra những thách thức lớn cho mục tiêu phát triển bền vững và an toàn môi trường sống.
Nhựa là một loại vật liệu phổ biến và đa dạng, được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, dân dụng. Sản phẩm từ nhựa xuất hiện ở mọi nơi, từ đồ gia dụng, bao bì đóng gói, đồ điện tử cho đến đồ chơi trẻ em và nhiều ứng dụng khác. Tuy nhiên, quá trình sản xuất và tiêu dùng nhựa đã gây ra một vấn đề nghiêm trọng về rác thải nhựa. Số lượng lớn rác thải nhựa khó phân hủy đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và sức khỏe con người.
Chất thải nhựa chiếm 80% tổng lượng ô nhiễm biển và khoảng 8 đến 10 triệu tấn nhựa trôi ra đại dương mỗi năm (UNESCO, 2022). Theo nghiên cứu của World Economic Forum thể hiện rằng, trong 10 quốc gia thải ra lượng rác thải nhựa nhiều nhất thế giới có tới 6 quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Trong đó, Việt Nam đứng vị trí thứ 8 về lượng rác thải nhựa thải ra biển với 28,221 tấn mỗi năm (World Economic Forum, 2023). Do đó, việc giải quyết rác thải nhựa trong khu vực là điều cấp thiết, không chỉ vì khát vọng tăng trưởng xanh của khu vực mà còn vì sức khỏe của toàn cầu.
Cơn khủng hoảng trong thầm lặng: Nhựa đang “ép chặt”
hệ sinh thái
Theo thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa thải ra môi trường, trong đó 0,28 - 0,73 triệu tấn bị thải ra biển nhưng chỉ 27% trong số này được tái chế, tận dụng bởi các cơ sở, doanh nghiệp.

Thông tin từ đại diện Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ từ rác thải nhựa, bình quân mỗi hộ gia đình sử dụng khoảng 1kg túi nilon/tháng, riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh trung bình mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn rác thải nhựa và túi nilon. Trong khi đó, việc phân loại, thu hồi, tái chế và xử lý rác thải nhựa còn hạn chế. Lượng chất thải nhựa và túi nilon ở Việt Nam, chiếm khoảng 8- 12% chất thải rắn sinh hoạt. Nhưng chỉ có khoảng 11- 12 % số lượng chất thải nhựa, túi nilon được xử lý, tái chế, số còn lại chủ yếu là chôn lấp, đốt và thải ra ngoài môi trường. Điều này có thể dẫn đến thảm họa môi trường, ô nhiễm đại dương.
Cùng với các hoạt động sinh hoạt, mỗi ngày, có khoảng 22 tấn chất thải nhựa được thải ra từ các hoạt động y tế, trong số đó lẫn với rác thải nguy hại (thuốc, hóa chất..).
Chia sẻ về thực trạng ô nhiễm rác thải nhựa tại Việt Nam, ông Hoàng Đức Vượng, Chủ tịch Chi hội Nhựa tái sinh, Hiệp hội Nhựa Việt Nam nêu thực tế, năm 2023 Việt Nam nhập khẩu khoảng 7,5 triệu tấn hạt nhựa, đồng thời sản xuất trong nước khoảng hơn 2 triệu tấn. Như vậy nguyên liệu để sản xuất hạt nhựa nguyên sinh ở Việt Nam mỗi năm có khoảng 10 triệu tấn.


Trong những năm qua, tiêu thụ nhựa ở Việt Nam liên tục tăng trưởng khoảng 15% mỗi năm. Hiện nay, tổng sản lượng ngành nhựa khoảng 25 tỷ USD, xuất khẩu năm 2023 khoảng 4,5 tỷ USD.
Theo ông Vượng, với lượng tiêu thụ tăng mạnh, lượng rác thải nhựa ra môi trường là rất lớn và tăng hàng ngày. Lượng rác thải nhựa này đang một phần (nhựa có giá trị) đang được thu gom, tái chế ở các làng nghề trên cả nước. Tuy hiên, còn lượng lớn rác thải nhựa khó tái chế, giá trị thấp như bao bì, túi nilon, nhựa sử dụng 1 lần…không được tái chế, đổ ra bãi rác chôn lấp, hoặc thải trực tiếp ra môi trường. Theo ước tính mỗi năm Việt Nam tiêu thụ khoảng 6,2 triệu tấn nhựa. Điều này cũng đồng nghĩa với lượng rác thải nhựa thải ra rất lớn cần phải xử lý.
Rác thải nhựa “bủa vây”
từ sông ra biển
Báo cáo “Phân tích về ô nhiễm rác thải nhựa tại Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, mức độ ô nhiễm bờ sông (dựa trên khảo sát thực địa) tại 24 vị trí bờ sông được khảo sát, tổng số thu gom được 2.707 mảnh chất thải rắn, trung bình 22,5 mảnh/đơn vị. Chất thải nhựa chiếm 79,7% về số lượng và 57,2% về trọng lượng. Các đồ nhựa dùng một lần chiếm 72% tổng lượng rác thải nhựa. Tại các tiểu vùng thuộc miền Bắc, miền Trung và miền Nam, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào về tổng số rác thải nhựa. Tuy nhiên, số lượng rác thải nhựa trung bình ở các vị trí bờ sông thuộc khu vực đô thị (21,4 mảnh/đơn vị), cao hơn gần gấp 2 lần so với số lượng trung bình ở các vị trí bờ sông thuộc khu vực nông thôn (12,1 mảnh/đơn vị). Cụ thể, số lượng các mảnh nhựa ven sông tại Cần Thơ (34,5 mảnh/đơn vị), TP Hồ Chí Minh (33,4 mảnh/đơn vị) và Lào Cai (30,1 mảnh/đơn vị) cao hơn so với các địa điểm khác; trong khi số lượng các mảnh nhựa trên các bãi sông ở tỉnh Sóc Trăng là thấp nhất (4,3 mảnh/đơn vị).

Các phân tích cho thấy, mật độ ô nhiễm chung ở Thừa Thiên - Huế (141,1 mảnh trên mỗi mét bờ biển), TP Hồ Chí Minh (135,6 mảnh trên mỗi mét bờ biển) và Quảng Nam (133,7 mảnh trên mỗi mét bờ biển), cao hơn đáng kể so với ở các địa điểm khác. Mật độ đồ nhựa thấp hơn đáng kể ở Hải Phòng (36,23 mảnh trên mỗi mét bờ biển) và Đà Nẵng (27,9 mảnh trên mỗi mét bờ biển). Các đồ nhựa dùng một lần chiếm 52% tổng lượng chất thải nhựa tìm thấy tại các vị trí khảo sát ven biển. Kết quả đo lường Chỉ số bờ biển sạch (CCI) cho thấy, 10 vị trí (chiếm 71,4% tổng số) là cực kỳ bẩn (chỉ số CCI trên 20), 2 vị trí ở mức bẩn (chỉ số CCI 10-20), và 2 vị trí khác ở mức trung bình (chỉ số CCI 5-10). Chỉ số CCI cao nhất được ghi nhận tại bãi biển Bình Lập (379) và Mỹ Ca (192) ở Khánh Hoà, bãi biển Lai Hòa ở Sóc Trăng (176), Bãi Trường trên Đảo Phú Quốc (163) và bãi biển Bến phà Gót ở Hải Phòng (73).
Mức độ ô nhiễm trên sông và dọc sông (dựa trên khảo sát viễn thám và lưới kéo) được khảo sát bằng máy bay không người lái ở tầm cao cho phép xác định các điểm nóng ô nhiễm tại các vị trí khảo sát. Tiếp đó, hình ảnh với độ phân giải cao chụp ở tầm thấp giúp phân tích các điểm nóng rất hiệu quả. Cách tiếp cận này đã thành công trong việc phân tích trên diện rộng về số lượng rác thải trên sông, cùng với các đánh giá về diện tích và khối lượng chất thải. Tình trạng rác thải là đáng báo động ở tất cả các vị trí được điều tra; ở những vị trí không có nhiều rác tích tụ, nhựa thường bị mắc kẹt trong thảm thực vật trên bờ hoặc trôi nổi trên sông.
10 loại rác thải nhựa gây ô nhiễm phổ biến nhất trên sông và biển Việt Nam
Theo báo cáo của WB, 10 loại rác thải nhựa phổ biến nhất tại bờ sông chiếm từ 81,5% (sông Mê Kông) đến 93,4% (sông Hồng) tổng lượng rác thải nhựa. Tại các vị trí ven sông ở cả nông thôn và thành thị, túi ni lông cỡ 1 (0-5 kg) là vật dụng thường gặp nhất (chiếm 20,6% và 22% về số lượng, tương ứng tại nông thôn và thành thị). Do đó, kết quả trung bình chung của các cuộc khảo sát tại các khu vực sông cho thấy 21,9% tổng lượng rác thải nhựa là túi nhựa, loại từ 0-5 kg, tiếp theo là hộp xốp đựng thực phẩm và mảnh nhựa mềm (chủ yếu bao gồm mảnh nhựa của túi ni lông).

Các loại rác thải nhựa phổ biến nhất được xác định thông qua khảo sát viễn thám và lưới kéo: Các cuộc khảo sát bằng máy bay không người lái có hiệu quả trong việc phát hiện rác thải. Tại các địa điểm khảo sát, các vật nhựa sau được tìm thấy nhiều nhất (từ nhiều nhất đến ít nhất): Polystyrene, bao gồm hộp đựng thực phẩm (40%), nắp cốc, nắp và nhựa nhỏ (19%), túi LDPE, Bao bì và chai PET (18%).
Việt Nam nỗ lực giảm thiểu
rác thải nhựa
Là quốc gia ven biển với hơn 3.000 km bờ biển, Việt Nam chịu tác động nặng nề từ ô nhiễm nhựa đại dương. Theo báo cáo của WB, Việt Nam xếp thứ tư thế giới về lượng rác thải nhựa thải ra biển. Tuy nhiên, những năm gần đây, Việt Nam cũng đang nổi lên như một trong những quốc gia châu Á hành động mạnh mẽ nhất để thay đổi thực trạng này.

Vừa qua, tại Lễ Mít tinh hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới (05/6) và Tháng hành động vì môi trường năm 2025, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Lê Công Thành khẳng định, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc chiến chống rác thải nhựa. Chính phủ Việt Nam đã tham gia tích cực đề xuất các cơ chế hợp tác toàn cầu và khu vực về giảm rác thải nhựa tại nhiều hội nghị, diễn đàn quốc tế, như: Hội nghị Thượng đỉnh G7, Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN,...
Trong nước, hàng loạt chính sách đã được ban hành và triển khai mạnh mẽ: Luật Bảo vệ Môi trường 2020, Kế hoạch hành động quốc gia về rác thải nhựa đại dương với mục tiêu đến năm 2030 giảm 75% rác thải nhựa trên biển; chấm dứt hoàn toàn việc vứt bỏ ngư cụ xuống biển; không còn nhựa dùng một lần tại các cơ sở du lịch, khu bảo tồn biển…
Trên thực tế, nhiều địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh… đã triển khai hiệu quả các mô hình phân loại rác tại nguồn, “chợ dân sinh xanh”, khu đô thị không rác thải nhựa. Doanh nghiệp cũng bắt đầu ứng dụng vật liệu sinh học, bao bì tái chế và mô hình tuần hoàn chất thải tại các khu công nghiệp. Hà Nội phát động chiến dịch “Nói không với túi nilon tại siêu thị”, thu hút hàng chục nghìn lượt người dân tham gia chỉ trong vài tuần. Tại Quảng Ninh, chương trình “Vịnh Hạ Long không rác thải nhựa” và “Huyện Cô Tô không nhựa” đã đạt tỷ lệ chuyển đổi phao xốp sang phao nhựa HDPE trên 98%, góp phần giảm thiểu ô nhiễm nhựa trên biển và bảo vệ hệ sinh thái quý giá.

Tuy nhiên, những nỗ lực đó vẫn chưa tương xứng với quy mô của vấn đề. Theo UNDP, ô nhiễm không khí và rác thải đang gây tổn thất hơn 13 tỷ USD mỗi năm cho nền kinh tế Việt Nam – tương đương 4% GDP. Đây vừa là một cảnh báo môi trường và cũng là thách thức phát triển, khi hệ quả của ô nhiễm lan rộng đến y tế, nông nghiệp, du lịch và năng suất lao động.
Thứ trưởng Lê Công Thành cũng thẳng thắn thừa nhận, bên cạnh những kết quả tích cực, chúng ta cũng không thể phủ nhận nhiều thách thức tồn tại trong quản lý và giảm thiểu rác thải nhựa tại Việt Nam.
Vì vậy, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường hy vọng thông qua “Tháng hành động vì môi trường” sẽ tiếp tục lan tỏa, chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức về các mô hình tốt trong quản lý, tái chế chất thải nhựa; biến thách thức về chất thải nhựa thành cơ hội, động lực cho Việt Nam triển khai thực hiện nền kinh tế tuần hoàn, nền kinh tế tri thức với việc ứng dụng công nghệ cao để giảm phát thải nhựa.

PGS.TS Bùi Thị An - Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng cho rằng, để giảm thiểu rác thải nhựa, phát triển công nghệ tái chế thì Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ giai đoạn đầu cho các doanh nghiệp tái chế. Có như vậy mới hình thành được khu công nghiệp tái chế rác thải, ngành tái chế khi đó mới phát triển bài bản, khoa học và đảm bảo an toàn.
Việt Nam đang đứng trước yêu cầu xây dựng một thị trường tái chế thực sự hiệu quả, nơi doanh nghiệp được khuyến khích đầu tư vào công nghệ xanh, còn người tiêu dùng được hỗ trợ để thay đổi thói quen tiêu dùng. Đó là những “nút thắt” cần tháo gỡ không chỉ bằng lời kêu gọi, mà bằng chính sách nhất quán, hỗ trợ tài chính và sự điều phối mạnh mẽ từ trung ương đến địa phương.
Giữa bức tranh môi trường đầy biến động, nguồn lực lớn nhất và bền vững nhất của Việt Nam chính là con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, năng động, sáng tạo và ngày càng nhận thức rõ ràng hơn về trách nhiệm của mình đối với hành tinh. Chính lực lượng này đang đóng vai trò như nền tảng xã hội cốt lõi, nâng đỡ cho một mô hình tăng trưởng mới – nơi phát triển kinh tế không đối nghịch với môi trường, mà song hành, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Họ chính là người khởi xướng, người hành động, từ việc chọn lựa sản phẩm thân thiện với môi trường đến sáng tạo ra các giải pháp công nghệ xanh. Nếu được khơi dậy đúng cách và hỗ trợ bởi các chính sách phù hợp, nguồn lực con người này hoàn toàn có thể trở thành động lực chủ đạo, dẫn dắt Việt Nam tiến nhanh và bền vững trên con đường phát triển xanh.
Chấm dứt ô nhiễm nhựa không còn là lựa chọn. Đó là con đường tất yếu nếu nhân loại còn muốn giữ lại màu xanh trên bản đồ sinh tồn của mình. Và Việt Nam, với quyết tâm chính trị, nền tảng pháp lý và động lực xã hội ngày càng mạnh mẽ, hoàn toàn có thể trở thành hình mẫu chuyển đổi xanh ở Đông Nam Á, nếu biết tận dụng đúng thời điểm để bứt phá.